Trà - Những Thiên Cổ Sự (Kỳ 1/11)

Họ lịch sự như tiên phú quý như giời, quất con ngựa rong chơi ngoài ngõ liễu.

Ta trồng cỏ đầy vườn vãi hoa đầy đất, gọi hề đồng pha nước trước hiên mai.

Ông Tú Hải Văn

Uống trà trên đường (EpochTimes)

Trà là thứ thức uống vô cùng tao nhã. Nó có cùng thời với ông Thần Nông. Các bác bên Tàu bảo thế. Mình nghe vậy biết vậy. Nói về trà thì các bài nghiên cứu, khảo cứu, phiếm luận, đàm luận, tranh luận và cãi… luận, nhiều vô thiên lủng. Tại hạ vốn không nghiện trà, lại chẳng sành trà nên bàn về trà không khác gì múa rìu qua mắt thợ. Nên chỉ dám gọi vài dòng lăng quăng bên đường là trà… chém gió (xin mượn chữ của bác Dũng Cận ở đây).

Trà khởi nguồn từ châu Á (Trung hoa), rồi sang châu Âu và đi khắp thế giới. Việt Nam ta hẳn phải biết uống trà từ rất sớm. Nhưng một ngàn năm bị đô hộ khiến không có dòng thư tịch nào ghi nhận việc thưởng thức trà trong thiên niên kỷ thứ nhất cả.

Nhưng trước, sau và cả trong nghìn năm đô hộ ấy, dân ta vẫn độc lập trong nhiều mặt. Chẳng hạn như trà xanh, trà vối, và về sau này là trà Huế (người Huế còn uống trà theo mùa nữa, gọi là thời trà), thì cách uống không giống Tàu chút nào. Mà trà vối, trà xanh lại vô cùng quen thuộc với người nông dân Việt Nam.

Mãi đến đời Lý Trần (Thế kỷ XI-XIV), một ít thi văn mới nhắc đến trà, như câu thơ của Thiền sư Viên Chiếu,

Tặng quân thiên lý viễn. Tiếu bả nhất âu trà.

 Tặng người ngàn dặm cách xa. Cười dâng chỉ một âu trà thế thôi.

Bài Phúc Hưng viên của Thượng tướng Trần quang Khải:

Thử lai yêu khách kiêu trà uyển

Vũ quá hô đồng lý dược lan

Nắng lên, mời khách pha chè thưởng

Mưa tạnh, sai đồng giở thuốc coi

(Ngô Tất Tố dịch)

Bài Tặng sĩ đồ tử đệ của Huyền Quang thiền sư:

Phú quý phù vân trì vị đáo

Quang âm lưu thuỷ cấp tương thôi

Hà như tiểu ẩn lâm tuyền hạ

Nhất tháp tùng phong trà nhất bôi

Giàu sang đến chậm như mây nổi

Năm tháng trôi vèo tựa nước sa

Rừng suối chi bằng về ẩn quách

Gió thông một sập, chén đầy trà

(Huệ Chi dịch)

Bài Xuân đán của Chu Văn An:

Bách huân bán lãnh trà yên yết

Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn

Hương bách tiêu tan trà hết khói

Chim kêu bên suối mộng xuân tàn

(Đào Phương Bình dịch)

Bài Tống Lãm Sơn Quốc Sư Hoàn Sơn của Phạm Nhã Khanh:

Tùng viện chữ trà hương mạc mạc

Hạc tuyền tẩy bát thủy sàn sàn

Trà đun thơm ngát hương Tùng viện

Bát rửa trong veo nước Hạc tuyền

(Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang)

Bàì Cửu nguyệt tam thập dạ hữu cảm của Trần Nguyên Đán:

Hương độ tiểu đang tân đạo chúc

Yên ngưng cổ đỉnh thục lan trà

Niêu nhỏ hương thơm mùi gạo mới

Đỉnh xưa khói tụ ấm chè pha

(Lương Trọng Nhàn dịch)

Bài Tống bắc sứ Ngưu Lượng của Trần Nghệ Tông:

An Nam lão tế bất năng thi

Không bả trà âu tống khách quy

Viên Tản sơn thanh, Lô thủy bích

Tùy phong trực nhập ngũ vân phi

Tể tướng An Nam thơ chẳng hay

Ấm trà đưa khách buổi chia tay

Núi Tản viên xanh, Lô nước biếc

Cưỡi gió vào mây ngũ sắc bay

(Trung tâm nghiên cứu quốc học dịch)

 

(Thơ văn đời Lý Trần, nhiều tác giả)

(Lược thảo Lịch sử văn học Việt Nam, Nhiều tác giả)

(Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang)

Bưng nước pha trà

Kỹ thuật của người Annam, t.3

 


Đăng nhập để gửi phản hồi cho bài viết