Vuốt Râu Hùm Kỳ 7

Chương III

1.

Tia chớp xanh lợt ngoằn ngoèo làm sáng rực căn phòng, một loạt tiếng sấm nối theo như xé toạc cửa sổ.

Trong ánh chớp lóe lên, Ken thấy cây đèn pin trên bàn, gã chộp lấy và bật lên.

Vùng ánh sáng chiếu thẳng lên thân hình Fay nằm dài trên giường. Ken cúi xuống. Đôi mắt cô đã nhắm một nửa, trống rỗng nhìn dán vào Ken. Máu, từ lỗ thủng nhỏ trên ngực trái, chỉ còn một dòng nhỏ. Môi cô mấp máy, một cơn co giật thoáng qua, cô ưỡn lưng, tay nắm chặt, khớp ngón trắng bệch.

Ken thở gấp, “Lạy Chúa, Fay ơi !”

Trong ánh mắt trống rỗng của cô là nỗi kinh hoàng, rồi bỗng vẻ kinh hoàng tan đi, mắt cô đảo tròn, cơ duỗi ra. Một hơi thở dốc từ hàm răng nghiến chặt, hình như cô bỗng bé lại, giống con búp bê, không còn là người nữa.

Run từ đầu tới chân, Ken nhìn cô như thằng ngốc. Gã lo lắng nắm chặt cây đèn pin.

Gã đặt tay trên ngực cô, máu ướt đẫm ngón tay. Gã thấy tim đã ngừng đập.

“Fay !”

Giọng gã khản đặc.

Gã bước lui, muốn nôn, nước bọt ứa ra. Gã nhắm tịt mắt, cố chiến đấu với nỗi kinh hoàng. Lát sau, gã lấy lại bình tĩnh, và lảo đảo rời xa giường. Chân gã chạm vào vật cứng gì đó, gã cúi xuống lia ánh đèn pin.

Trên thảm là cái nạy nước đá cán màu xanh, lưỡi ngắn và sắc đẫm máu. Gã nhìn, thở khó nhọc.

Đây là vụ sát nhân.

Khám phá này với gã quá lớn. Gã thấy đầu gối mình biến đâu mất và vội ngồi xuống.

Sấm vẫn gầm vang trên đầu, mưa gia tăng cường độ. Gã nghe tiếng xe phóng nhanh trên đường, tiếng máy to, khô khốc. Gã nín thở lắng nghe. Tiếng xe chạy tiếp, đi ngang nhà, gã lấy lại hơi thở.

Sát nhân !

Gã nghĩ, mình đang phí thời gian. Phải gọi cảnh sát.

Gã lại lia đèn pin lên người Fay. Gã thuyết phục mình rằng cô đã chết. Gã cúi xuống , sờ vào mạch máu ở cổ cô. Không thấy gì. Và gã lại phải cố nén cơn buồn nôn.

Khi bước lùi, chân gã chạm cái gì đó làm gã rùng mình. Gã đã bước vào vũng máu đọng trên tấm thảm.

Chùi chân trên thảm, gã lảo đảo ra phòng khách.

Bóng tối, đen như mực, nóng bức, như bị ánh đèn pin chọc thủng, làm gã nghẹt thở. Gã lần dò đi ngang phòng đến tủ rượu, rót đầy ly uýt ki, uống cạn. Chất rượu làm thần kinh gã bớt căng thẳng.

Gã lia đèn pin loanh quanh, tìm chỗ để điện thoại. Thấy nó trên bàn nhỏ bên trường kỷ. Gã dợm bước, rồi dừng.

Nếu cảnh sát không tin câu chuyện của gã thì sao? Nếu như họ buộc tội gã giết Fay ?

Gã lạnh cứng người khi nghĩ vậy.

Cho dù họ chấp nhận câu chuyện của gã, và giả dụ họ bắt được tên sát nhân, gã vẫn là nhân chứng chính trong một vụ án giết người. Gã phải giải thích sao đây tình thế trong căn hộ khi vụ giết người xảy ra? Sự thực sẽ đến, Ann sẽ biết. Nhà băng sẽ biết. Tất cả bạn bè gã sẽ biết.

Miệng gã khô ran.

Gã sẽ là tin tức trên trang đầu. Mọi người sẽ biết là, trong khi Ann đi vắng, gã đã đến chỗ gái gọi.

Gã tự nhủ, phải thoát ra khỏi chỗ này. Mày không còn làm được gì cho cô ta nữa. Cô ta chết rồi. Mày phải nghĩ đến mình. Chuồn thật nhanh.

Gã đi ra cửa trước, rồi ngừng ngay lại.

Gã có để lại dấu vết nào trong căn phòng này khiến cảnh sát lần đến gã không? Gã không nên hoảng hốt bỏ chạy ngay như thế. Chắc phải có dấu vết gì đó.

Gã đứng trong bóng tối, vật lộn với nỗi sợ hãi, cố suy nghĩ.

Dấu ngón tay trên mấy cái ly. Gã đang cầm cây đèn pin của Fay: đều dẫn đến gã. Dấy tay cả trên chai uýt ki nữa.

Gã rút khăn lau bộ mặt đẫm mồ hôi.

Chỉ có kẻ sát nhân và gã biết Fay đã chết. Gã có thời gian, Gã không được hoảng. Trước khi đi, gã phải kiểm soát kỹ phòng này và phòng ngủ để chắc chắn không để lại gì cho cảnh sát dẫn đến gã.

Trước đó gã phải có ánh sáng để xem cần làm gì.

Gã bắt đầu lục soát tỉ mỉ để tìm hộp cầu chì, và thấy nó trong bếp. Trên nó là gói dây chì. Gã thay cầu chì, bật cầu dao chính. Đèn trong bếp sáng lên.

Gã lấy khăn tay lau hộp cầu chì cẩn thận, rồi quay ra phòng chờ.

Tim đập thùm thụp khi gã nhìn quanh phòng. Mũ gã vẫn để trên ghế. Gã quên bẵng cái mũ. Giả như gã hoảng quá, chuồn đi, bỏ mũ lại đó. Tên gã rành rành trên mũ.

Để chắc là đừng quên, gã đội mũ vào.

Gã nhặt mấy mảnh ly vỡ, gói vào tờ báo, lấy gót chân dận cho nát vụn ra rồi mang vào bếp bỏ giỏ rác.

Gã tìm được miếng giẻ trong bồn bếp, quay ra phòng chờ, lau sạch cái ly và chai gã vừa cầm.

Trong gạt tàn là bốn đầu mẩu thuốc vừa hút, gã nhặt lên bỏ túi, rồi lau sạch gạt.

Gã cố nhớ xem có sờ vào cái gì khác trong phòng. Điện thoại. Gã đi ngang qua phòng , lau sạch ống nghe.

Hình như không còn gì khác.

Gã sợ phải vào phòng ngủ, nhưng biết phải vào. Gã rán hết sức, đi vào, bật đèn phòng ngủ. Cố tránh nhìn xác Fay, gã cầm đèn pin,  đã lau cẩn thận, để lên bàn cạnh giường nơi gã tìm thấy nó. Rồi ngừng lại, nhìn quanh.

Gã không chạm vào thứ gì trừ cái đèn pin. Gã chắc vậy. Gã nhìn cái nạy đá cán xanh, nằm trên thảm. Nó ở đâu ra? Có phải tên sát nhân mang theo? Gã nghĩ không phải _ nhưng rất có thể. Nếu hắn mang đi thì hắn đã cầm theo rồi. Và tên sát nhân vào phòng bằng cách nào? Chắc là không phải trèo lên cửa sổ. Hắn phải có chìa khóa hoặc đã nạy cửa trước.

Ken nghĩ, nhưng đây là chuyện gì? Thời gian vẫn đang trôi. Hài lòng thấy mình không để lại dấu tay hay dấu vết gì để cảnh sát nghi ngờ, gã quyết định chuồn đi.

Nhưng trước khi đi, gã phải xóa vết máu trên tay và xem lại quần áo đã.

Gã vào phòng tắm. Cẩn thận lấy mù xoa phủ lên trên, gã mở vòi nước rửa sạch vết máu trên tay. Gã lấy khăn tắm lau khô rồi đứng trước gương xem lại quần áo.

Gã run rẩy khi thấy có vết đỏ bên trong tay áo trái. Một vết nữa trên gấu quần trái.

Gã nhìn vết máu, nỗi sợ kẹp chặt gã. Lúc này ai mà nhìn thấy thì tiêu!

Gã xả thêm nước vào bồn rửa, cầm miếng bông tắm, gã chà điên cuồng mấy vết máu. Màu nhạt dần thành vết nâu, nhưng vẫn còn.

Gã rửa miếng bông, nhăn mặt thấy nước có màu hồng hồng. Gã tắt nước, để miếng bông lại chỗ cũ.

Tắt đèn, gã đi vội ra phòng chờ.

Phải đi thôi.

Gã nhìn quanh lần nữa.

Bão đã đi qua. Sấm còn rì rầm xa xa, và mưa vẫn đập vào cửa sổ.

Gã đã làm tất cả để bảo vệ mình. Hai giờ kém hai mươi. Nếu gặp may, gã sẽ xuống cầu thang mà không gặp ai. Gã đi ngang cửa trước, tắt đèn, với cầm tay nắm cửa. Nếu gặp ai…

Gã rán vặn khóa cửa. Bỗng nghe phía ngoài có tiếng động làm gã điếng người, kinh hoảng.

Tì người vào cánh cửa, gã nghe có tiếng loạt soạt nhỏ.

Gã nín hơi, tim đập rầm rầm.

Gã căng tai nghe tiếng động tắt dần. Có con chó bên ngoài, gã nhớ đến con Bắc kinh nâu vàng, và nhớ ngay đến Raphael Sweeting.

Gã quên bẵng Sweeting.

Sweeting đã thấy gã quay lại căn hộ với Fay. Gã nhớ lại cái nhìn của gã béo, như ghi nhận từng chi tiết con người gã. Cảnh sát mà thấy xác Fay, thì Sweeting sẽ nhớ ngay ra gã.

Ken nhắm mắt, nỗi sợ cứ tăng dần.

Gã tự nhủ, bình tĩnh nào. Có cả ngàn thằng giống mày. Cho dù hắn tả mày cho cảnh sát, thì làm sao mà cảnh sát nhìn ra mày?

Gã tựa người vào cửa, nghe con chó cứ khọt khẹt, cái mõm cạ dước chân cửa.

Nghe có tiếng ở bậc thang.

“Leo !”

Giọng nữ the thé của Sweeting làm tim Ken đập hụt.

“ Leo! Lại đây!”

Con chó cứ khịt mũi.

Ken chờ. Tim gã đập dữ đến nỗi gã tưởng Sweeting nghe được.

Sweeting nói, “Mày không lại thì tao đi đây. Mày không tốt đấy, Leo.”

Lại tiếng lẹt sẹt, Ken vội bước lui, nín thở.

Sweeting hỏi, “ Đi thôi. Mày ngửi gì thế?”

Khoảng yên lặng dài đau đớn, rồi Ken nghe tiếng bước nhẹ ở ngoài. Lại yên lặng, và Ken có cảm giác khủng khiếp là Sweeting đang áp tai vào cửa, lắng nghe.

Con chó ngừng đánh hơi. Chỉ lúc ấy Ken mới nghe tiếng tim mình đập thùm thụp và tiếng mưa rơi trên cửa sổ.

Rồi lại nghe âm thanh làm gã lạnh sống lưng. Tay nắm cửa kèn kẹt rồi bắt đầu xoay. Gã nhớ đã mở khóa. Khi cửa dần nhích vào trong, gã chèn chân vào khe, chận nó lại. Gã tì cả người vào cánh cửa và tuyệt vọng tìm nấc khóa.

Có lực ấn nhẹ lên cửa, rồi thôi.

Sweeting hơi cao giọng, “Đi nào, Leo. Xuống thôi. Mày lại đánh thức cô Carson đấy.”

Ken dựa cửa, mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt. Gã nghe tiếng bước chân Sweeting xuống cầu thang, và, ngay khi thần kinh gã vừa dịu lại, tiếng chuông điện thoại trên đầu réo lên.

 

2.

Tiếng sấm đã tắt và ngoài tiếng chuông điện thoại rờn rợn, dấm dẳn, còn thì im lặng bao kín lấy căn nhà.

Ken muốn điên lên, nghĩ, chắc người trong nhà cũng nghe tiếng chuông. Ai lại gọi giờ này?

Gã chờ, gai ốc nổi lên, tiếng chuông cứ réo. Nó phải ngưng chứ, không thể kéo dài mãi được…

Gã bật đèn, lảo đảo bước đến, nhấc ống nghe.

“Fay à? Sam đây.”

Ken nhận ra giọng trầm, vang của Sam Darcy, người da đen khổng lồ gã gặp ở quán Hoa Hồng Xanh.

Darcy vội tiếp, “Nghe này, cưng. Có người thấy Johnny ở trong thành phố. Hắn đang tìm cưng đấy. Tôi được cho tin hắn đang ở Câu lạc bộ Thiên đường, hỏi thăm cưng .”

Ken áp sát ống nghe vào tai, ngơ ngác.

Johnny? Là ai? Có phải Johnny giết Fay không?

Tay run rẩy, Ken buống ống nghe.

Gã chắc là Darcy sẽ gọi lại. Gã phải tắt tiếng chuông điện thoại.

Gã chộp tờ báo trên ghế, xé đôi, gấp thành miếng đệm, rồi chèn giữa chuông điện thoại và quả lắc.

Vừa làm xong thì quả lắc rung rồi có tiếng rì rầm.

Gã nhìn quanh căn hộ lần chót, tắt đèn, mở khóa cửa, hé ra. Gã liếc bậc chờ. Trống trơn. Gã nhớ lấy khăn tay lau tay nắm và khép cửa lại sau lưng.

Gã đứng ở bậc chờ, nghe ngóng. Căn nhà yên tĩnh. Gã nhón chân nhìn qua tay vịn bậc chờ bên dưới. Cũng trống trơn, nhưng cửa phòng Sweeting hé ra.

Ken nhìn cánh cửa, tim đập ầm ầm.

Cửa hé chỉ có thể là Sweeting đang đứng rình. Không chừng hắn đang ở sảnh, khuất tầm mắt, nhìn xuống bậc chờ.

Muốn ra khỏi nhà không còn cách nào khác là xuống cầu thang.

Ken lưỡng lự. Gã nên chờ Sweeting đi trước hay gã nên đi trước.

Gã muốn chờ nhưng biết vậy là nguy hiểm. Vẫn còn nghe tiếng chuông điện thoại rì rầm. Hắn có thể đến và sẽ rõ vì sao Fay không trả lời điện thoại.

Gã phải tránh xa căn hộ này trước khi người ta tìm thấy xác Fay.

Làm được, nếu len lén, đi thật nhẹ qua cánh cửa khép hờ nhà Sweeting, mà không bị hắn nhìn hay nghe thấy gì.

Đó là hy vọng duy nhất.

Gã bắt đầu xuống, len sát tường, tránh chạm tay vịn, vì e có tiếng động.

Gã đi bước một, không âm thanh. Đến bậc cuối, gã dừng lại nghe ngóng.

Gã chỉ vừa qua khỏi cánh cửa khép hờ. Nếy Sweeting ngồi trong phòng, hắn sẽ thấy Ken. Nhưng nếu Sweeting ngủ gật, Ken có thể qua cầu thang kế mà không bị nhìn thấy.

Gã tự khích lệ mình, nhưng khi gã vừa đi ngang, con chó Bắc kinh nhảy ra cửa, ngồi nhìn gã.

Ken đứng yên, chưa bao giờ thấy sợ đến thế.

Gã và con chó cứ đau đáu nhìn nhau một lúc, rồi trước khi gã định làm gì thì cửa mở rộng và  Sweeting ló ra.

Hắn nói khẽ, “Lại đây, Leo. Giờ này là giờ ngủ nhé.”

Hắn tinh quái nhìn Ken, mỉm cười.

Hắn nói, “Ông không biết là tôi phải vất vả thế nào để đưa anh bạn nhỏ này đi ngủ đâu.”

Ken không nói gì. Không nói được. Vì miệng gã khô ran.

Sweeting bế con chó lên. Nó cứ chăm chăm nhìn Ken.

Hắn tiếp, vừa gãi nhẹ đầu con chó, “ Tạnh mưa rồi. Chắc có bão to.” Hắn nhìn cái đồng hồ đeo tay mạ kền rẻ tiền đeo trên cổ tay mập, lông lá, “Tôi không hay là khuya lắm rồi. Gần hai giờ.”

Ken cố trấn tĩnh. Gã băng qua bậc chờ đến cầu thang kế.

Sweeting bước sau Ken, “Tôi xin lỗi. Tôi nói nhiều quá. Anh bỏ qua chứ. Tôi chỉ là người cô đơn thất bại. Nếu không có Leo, tôi thật đơn độc.”

Ken cứ đi, cố cưỡng lại ý muốn chạy nhào xuống cầu thang, ra khỏi nhà.

Sweeting hỏi, níu tay áo Ken, “Ông không vào uống với tôi một ly sao? Làm ơn đi, chẳng mấy khi tôi được làm chủ nhà.”

Ken vùng ra, phẩy tay, tiếp tục xuống, “Không , cám ơn.”

Sweeting gọi, tì vào thanh vịn, “ áo ông có vết dơ kìa. Vết nâu. Ông không thấy sao? Nếu ông quan tâm thì tôi có thứ tẩy nó đi được.”

Không nhìn lui, Ken gấp bước, gã đã đến bậc chờ thứ ba. Càng lúc gã càng muốn chạy.

Gã lao qua bậc chờ, đến cầu thang kế, đến bậc chờ ở tầng trệt đèn thắp lờ mờ. Gã đẩy mạnh cửa trước, va vào một cô gái vừa bước vào.

Ken sửng người, lùi lại.

Cô gái nói vừa chỉnh lại mũ, “Không cần thụi em thế đâu, cưng ơi.” Cô rướn tay bật công tắc, ánh sáng chan hòa khắp sảnh.

Đó là một cô gái mũm mĩm tóc vàng, mắt như đá hoa cương. Bộ váy đen ôm lấy người.

Cô tặng cho gã một nụ cười nghề nghiệp, sáng bừng, “Chào, cái gì làm anh vội thế?”

Ken nói, hụt hơi, “Xin lỗi, tôi không thấy cô”. Gã bước tới một bước, nhưng cô chận ngay cửa.

Cô nhìn gã, vẻ quan tâm, “ Làm gì thế. Có muốn vui vẻ tí chút không, anh trai?”. Cô chỉ về phía cửa bên trái. “Ngay đây. Làm một ly nhé.”

“Không. Tôi đang vội.”

Cô ta chận gã, “Đi nào, mắc cỡ gì.”

Ken thất vọng quát, “Tránh ra !” Gã đẩy cô sang bên.

Cô gái ré lên, “Đừng đụng vào tao, đồ thối tha.” Và khi Ken đã chạy xuống đường, cô ta lớn tiếng chửi rủa .

 

 

 

3.

Mưa vẫn rơi khi Ken bước vội trên lề đường loáng nước. Không khí lạnh hơn và trên cao những đám mây bão đang tan dần. Thỉnh thoảng, mặt trăng ló ra và biến mất khi mây đen kéo ngang, bị gió giật lùa đi.

Ken nghĩ: có hai kẻ biết mình, họ sẽ tả mình cho cảnh sát. Báo chí sẽ đăng tin.

Nhưng làm sao liên kết mình với Fay? Mình không có lý do gì giết cô. Chính lý do mới mở đường cho cảnh sát. Không có lý do thì không đi đến đâu cả. Cô ta là điếm. Giết gái điếm luôn là ca khó giải quyết nhất. Nhưng nếu Sweeting hay cô gái lại tình cờ đến nhà băng? Nghĩ thế, gã lạnh người. Họ nhận ra mình không? Họ có nhận ra nếu mình không đội mũ? Nhưng mình phải đề phòng. Nếu thấy họ đến, mình phải rời quầy tránh đi ngay.

Mình phải đề phòng.

Gã nhận ra tương lai gã khủng khiếp ra sao. Lúc nào cũng phải dè chừng, lúc nào cũng phải dòm ngó hai người này. Không phải một tuần, một tháng mà tới khi nào gã còn làm ở nhà băng.

Nghĩ đến tình huống này gã dừng chân lại. Gã đứng ở lề đường, ngơ ngẩn nhìn đường phố ẩm ướt, chuông báo động réo trong đầu.

Chừng nào gã còn làm ở nhà băng, chừng nào gã còn ở trong thành phố. Hình bóng bất kỳ tên mập nào với con chó Bắc kinh, bấy kỳ cô ả tóc vàng nào với cặp mắt khó chịu cũng khiến gã phải cấp tốc dấu mình. Gã sẽ không được nghỉ ngơi lấy một phút. Tình thế bất khả thi. Cách duy nhất là xin chuyển đến chi nhánh khác ở thành phố khác. Sẽ phải bán nhà. Có thể không xin chuyển được. Có thể phải tung hê nhà băng, đi tìm công việc khác.

Và Ann sẽ nghĩ gì. Trong quá khứ, gã chưa bao giờ dấu cô được điều gì. Mong gì dấu cô được chuyện này. Hình như cô luôn biết trước chuyện không hay xảy đến cho gã. Có lần gã bị hụt mất bốn chục đôla trong tiền thu được. Gã không kể với cô. Gã chuyển tiền riêng trong tài khoản để bù, vậy mà rồi cô cũng biết.

Gã nghĩ, mình là thằng điên khùng. Sao mình làm vậy. Quái quỷ gì mình không tránh xa cô ta và về nhà cho rồi.

Gã bắt gặp có cái bóng di chuyển ngang đường, vội lùi vào bóng tối. Miệng gã khô ran khi thấy cái mũ dẹt và những nút đồng sáng loáng của một anh cớm.

Dẫu sao thì gã vẫn phải bước. Tim gã đập thùm thụp khi đi ngang anh cớm đang dòm gã lom lom, có vẻ ảnh đang nghi, gã rán không vùng chạy.

Gã cứ đi, không nhìn lại, chờ nghe anh cớm quát hỏi. Không có gì xảy ra, và khi đi được chừng hai chục mét, gã nhìn qua vai.

Anh cớm tiếp tục đi, vung vẩy cây gậy, Ken thở phào nhẹ cả lòng.

Cuộc gặp làm dấy lên tương lai u ám. Cứ gặp cớm là sợ.

Kết thúc ngay bây giờ có tốt hơn không? Có nên đến cảnh sát báo cho họ những gì đã xảy ra?

Gã giận dữ tự nhủ, bình tĩnh nào, thằng ngốc ẻo lả. Mày phải nghĩ đến Ann. Cứ bình tĩnh, rồi sẽ ổn, Không ai nghi ngờ mày. Ra khỏ chỗ này, về nhà. Mày sẽ an toàn.

Gã thẳng người, gấp bước. Một phút sau gã đến chỗ đậu xe.

Bỗng một ý nghĩ thoáng qua làm gã giật mình kinh hoảng, gã dừng ngay lại.

Người giữ xe có cuốn sổ ghi lại số xe những chiếc đậu ở bãi. Gã sẽ chết chìm nếu người giữ xe ghi lại số xe gã. Cảnh sát chắc chắn sẽ hỏi người này. Cảnh sát sẽ tả nhân dạng gã cho hắn biết và hắn sẽ nhớ gã. Hắn chỉ phải giở sổ báo cho cảnh sát. Chỉ nửa giờ là họ sẽ  tới nhà gã.

Rùng mình, Ken đi vào con hẽm tối thui, vừa cố nghĩ nên làm gì. Từ chỗ đứng, gã thấy lối vào bãi đậu xe. Trông rõ cái chòi nhỏ bên cổng. Có ánh đèn trong chòi, gã nhận ra cái bóng người gác đang cúi xuống đọc báo.

Ken phải biết chắc có cuốn sổ trong chòi. Gã không dám lái đi nếu không chắc người gác không ghi lại số xe của gã. Nếu có cuốn sổ, gã phải hủy nó.

Gã dựa người vào bức tường trong hẽm, quan sát căn chòi. Nếu có ai đó đến gần xe gã thì người gác sẽ rời chòi, tạo cho gã cơ hội lẻn vào xem cuốn sổ có đó không. Nhưng giờ là hai giờ rưỡi khuya. Cơ may có ai xuất hiện quá xa vời. Thời gian đang cạn, gã không thể chờ.

Gã khích lệ mình, rời hẽm, băng qua đường, đến chỗ đậu xe.

Cửa chòi mở, gã bước vào.

Người gác già ngẩng lên nhìn, ngạc nhiên gật đầu chào.

“Thưa, ông muộn giờ.”

Ken nói, nhìn quanh, “Phải.”

Có cái bàn bên cửa sổ. Giữa chồng báo cũ, cái chảo, cái bếp ga, vài cái bát Trung hoa bẩn thỉu, cái khăn lau tay còn bẩn hơn, là cuốn sổ quăn góc nằm trên bàn, mở khoảng giữa cuốn.

Ken đến gần, nói,

“Có bão. Tôi chờ trời quang .”

Mắt gã nhìn trang đang mở. Dãy số xe viết gọn gàng: thứ ba từ dưới lên là xe gã.

Người gác nói, “Vẫn còn mưa”, rồi đốt cái tẩu khét lẹt mùi thuốc. “không chừng phải chờ. Thưa, ông phải làm vườn?”

Ken nói, cố đừng run giọng, “Chắc thế. Mười ngày rồi mới có trận mưa.”

Người gác nói, “Đúng. Ông trồng hồng hử?”

“Tất cả là hồng với cỏ”, Ken đáp vừa xoay lưng che bàn.

“Tôi cũng chỉ chừng ấy”, ông lão nói, đứng lên đi ra cửa sổ nhìn đám mây trĩu những hạt mưa.

Ken cầm cuốn sổ dấu ra sau.

“Ông không có ai chia ca sao?” Ken nói, ra đứng cạnh ông.

“Tôi đi từ lúc tám giờ. Mà thưa ông, khi nào đến tuổi tôi, ông không cần ngủ nhiều đâu.”

“Chắc ông có lý. Mà thôi, tôi cũng cần ngủ thật nhiều.”

Ken bước vào chỗ tối, cảm thấy mưa quất vào khuôn mặt đẫm mồ hôi của gã.

Người gác nói, “ Tôi sẽ đánh dấu ông đi rồi trong sổ. Số xe ông là gì?”

Tim Ken ngừng, rồi đập .

Gã ngu ngơ lập lại, “Số xe tôi?”

Ông lão lại bàn, đẩy đống báo sang bên.

“Tôi để đâu rồi. Mới thấy nó đây mà.”

Ken nhét cuốn sổ vào túi hông. Gã nhìn chiếc Packard đậu gần cổng.

Gã đọc bảng số xe Packard, “ Số tôi là TXL 3345.”

“Tôi mới thấy cuốn sổ quái quỷ ấy đây mà. Thưa, ông có thấy không?

Ken đưa ông lão nửa đôla, “Không, thôi, xong nhé.”

“Xin cám ơn ông. Xin ông đọc lại số xe.”

Ken lập lại, nhìn ông lão hí hoáy viết bên mép tờ báo.

“Tôi cứ làm mất đồ luôn.”

“Được rồi.” Ken nói, bước nhanh đến xe mình.

Gã vào xe, và chỉ để đèn đỗ, phóng về phía cổng.

Ông lão ra ngoài chòi, vẫy tay chào. Ken tắt đèn đỗ, nhấn mạnh cần ga, lao qua. Ra đến đường lớn, gã mới bật đèn. Rồi đi với tốc độ đều đều, gã về nhà.


 

 

 

 

 

 

 


Đăng nhập để gửi phản hồi cho bài viết