TRÊN ĐỈNH CAO QUYỀN LỰC, KỲ 4

Chương 7

 

 NGÀI HARVEY WARRENDER

 

 1.

 

 

Kỳ nghĩ Giáng sinh qua nhanh như thể nó chẳng hề có.

Vào ngày Giáng sinh, gia đình Howden đi dự lễ ban thánh thể từ sớm, rồi về nhà tiếp khách đến trưa, phần lớn là các viên chức trong chính quyền và một vài người bạn của gia đình. Vào buổi trưa, gia đình Lexington đi xe đến, Thủ tướng cùng Arthur Lexington nói chuyện riêng đến hai giờ đồng hồ để chuẩn bị cho cuộc hội đàm với Washington. Sau đó, Margaret và James Howden nói chuyện bằng điện thoại với các con gái, con rể và cháu đang nghỉ Giáng sinh ở Luân đôn. Lúc mọi người đang nói chuyện dông dài với nhau, James Howden liếc nhìn đồng hồ và vui mừng là cậu con rể, một kỹ nghệ gia giàu có, sẽ trả cước điện thoại, chứ không phải ông. Thế rồi, nhà Howden yên lặng ăn cơm tối. Xong Thủ tướng vào phòng làm việc một mình còn Margaret xem phim trên truyền hình. Đó là một phim buồn, nhẹ nhàng dựng theo truyện của James Hilton, CHÀO TẠM BIỆT, ÔNG CHIPS . Margaret nhớ lại như nỗi nhớ quê hương là bà và chồng đã xem phim này từ những năm 1930 nhưng giờ đây ngôi sao diễn viên, Robert Donat và tác giả truyện phim đã qua đời từ lâu còn gia đình Howden cũng không còn đi xem xi nê nữa… Lúc 11g30 Margaret chào chồng và đi ngủ trong khi James Howden tiếp tục làm việc đến 1g sáng.

Ngày Giáng sinh của Milly Freedeman kém nặng nề hơn nhưng cũng kém hào hứng hơn. Cô dậy muộn, bần thần do dự, rồi đi lễ nhưng không dự lễ ban thánh thể. Trưa, cô đi taxi đến nhà người bạn gái cũ từ lúc còn ở Toronto, giờ đã lấy chồng và ở Ottawa, người đã mời Milly đến dự bữa tối Giáng sinh. Nhà có mấy đứa trẻ con, cô phải gắng gượng ngồi lại, mệt mỏi vì những chuyện nhà cửa, con cái và giá sinh hoạt. Một lần nữa – như nhiều lần khác – Milly thấy cô đã không ngu ngốc để tin rằng những cái gọi là hạnh phúc gia đình như thế không quyến rũ chút nào với cô. Cô vẫn thấy thích hơn, căn phòng ấm cúng của mình, sự độc lập cùng công việc và trách nhiệm mà cô vui hưởng. Rồi cô nghĩ: có lẽ ta đã già rồi, đâm ra khó chịu, nhưng càng lúc cô càng có cảm giác nhẹ nhõm khi đến giờ phải đi. Chồng cô bạn lái xe đưa cô về, trên đường về thử giở trò tán tỉnh, nhưng Milly cự tuyệt thẳng thừng.

Suốt ngày cô nghĩ nhiều về Brian Richardson, tự hỏi ông đang nghĩ gì và có điện thoại cho mình không.

Đến lúc không nghe điện thoại, cô càng thất vọng hơn.

Ý thức chủ quan nhắc Milly không nên dấn sâu hơn nữa. Cô nhớ lại cuộc hôn nhân của Brian Richardson, sự khác biệt về những gì hằng có giữa hai người, nhược điểm riêng của cô… Nhưng hình ảnh ấy cứ hằn sâu, mơ mộng viển vông cứ lấn át lý trí, tiếng vọng của những lời thì thầm âu yếm… Và, cuối cùng chính ý nghĩ này, một cách êm đềm và thơ mộng, đã trở thành nỗi nhớ sau cùng trong cái ngày đầy hồi ức này.

Brian Richardson làm việc cật lực trong ngày Giáng sinh. Ông rời phòng lúc sáng sớm và ngủ được một giấc bốn giờ liền khi đồng hồ báo thức làm ông tỉnh giấc. Eloise đêm qua không đến, điều này ông không còn ngạc nhiên nữa. Ăn sáng xong, ông lái xe đến trụ sở của đảng trên đường Sparks, ở lại đây gần suốt ngày, soạn thảo chi tiết về chuyến công du đã bàn với Thủ tướng. Vì chỉ có một người gác cửa và ông ở trong tòa nhà và không bị ai quấy rầy, ông đã hoàn tất được nhiều việc rồi sau cùng quay về căn phòng trống trải của mình với một cảm giác hài lòng. Có một, hai lần ông ngạc nhiên thấy mình bị chia trí vì nhớ đến cách xử sự của Milly đêm hôm trước. Hai lần ông đã muốn điện thoại cho cô, nhưng ý thức đề phòng đã cản ông lại. Chắng qua, toàn bộ sự việc ấy là việc đã rồi. Không nên coi quan trọng quá. Buổi chiều, ông đọc sách một lát rồi đi ngủ sớm.

Và Giáng Sinh đã trôi qua.

Bây giờ là 11giờ sáng ngày 26 tháng 12.

 

 

2.

 

 

Milly Freedeman báo, ‘ Ông Warrender đã sẵn sàng nếu ông muốn gặp ông ấy sáng nay.’ Cô mang khay cà phê nhẹ bước vào phòng Thủ tướng khi viên phụ tá của ông đi ra. Viên phụ tá chấp hành này, một thanh niên trẻ siêng năng, nhiều tham vọng có tính cách độc lập tên Elliot Prowse, đi đi lại lại suốt buổi sáng, nhận mệnh lệnh và báo cáo kết quả cho James Howden giữa một dòng người đến theo hẹn. Milly biết có quá nhiều việc phải làm để chuẩn bị cho cuộc hội đàm sắp đến với Washington.

James Howden, đang nghiên cứu một tập hồ sơ ngẩng lên, hơi cáu, ‘ Tại sao tôi lại phải gặp Warrender?’ – một chồng hồ sơ để trên bàn đánh dấu tối mật, liên quan tới hệ thống bố phòng liên lục địa. Các vấn đề quân sự chưa bao giờ làm James Howden quan tâm sâu xa và đến bây giờ ông lại buộc phải tập trung để nghiền ngẫm nó. Đôi khi ông cũng buồn lòng vì ngày nay chẳng còn mấy thời gian cho ông chú ý đến các vấn đề an sinh xã hội, đã từng là mối quan tâm chủ yếu của ông trong chính trị .

Vừa rót cà phê trong bình nhôm ra, Milly vừa trả lời, giọng không thay đổi, ‘ Tôi nghe ông điện thoại cho ông Warrender vào hôm trước ngày nghỉ, lúc đó ông ấy đi vắng.’ Theo thói quen cô cho thêm bốn miếng đường và khá nhiều kem, rồi cẩn thận đặt cái cốc trên miếng giấy thấm, cùng với một đĩa nhỏ đựng bánh chocolate.

James Howden bỏ tập hồ sơ xuống, nhón lấy cái bánh, cắn một miếng và hài lòng, ông nói, ‘ Ngon hơn bánh lần trước, nhiều chocolate hơn.’

Milly mỉm cười. Nếu Howden ít bận bịu hơn, có lẽ ông sẽ thấy sáng nay, Milly có vẻ tươi tỉnh khác thường, cũng như cô ăn mặc hấp dẫn hơn với bộ đồ bằng len nâu đốm xanh da trời và áo blouse cũng màu xanh da trời dịu.

Thủ tướng ngưng một lát rồi nói, ‘ Tôi nhớ rồi – tôi có gọi. Có một chuyện rắc rối về nhập cư ở Vancouver.’ Rồi ông thêm, với vẻ hy vọng. ‘ Có lẽ đến giờ này thì tình hình sáng sủa rồi.’

Milly bảo, ‘Tôi sợ là không. Sáng nay ông Richardson có điện thoại nhắc nhở.’ Cô lật cuốn sổ tay. ‘Ông ấy yêu cầu tôi báo với ông, tình hình rất sôi động ở miền Tây. Báo chí miền Đông cũng đang tỏ ra quan tâm.’ Cô không thể nói thêm rằng Brian Richardson đã dịu dàng nói riêng với cô, ‘ Milly, em là một người tuyệt vời, anh vẫn nghĩ đến điều đó. Chúng ta sẽ sớm nói chuyện trở lại.’

James Howden thở dài, ‘ Tôi nghĩ tốt hơn tôi nên gặp Harvey Warrender. Cô nên sắp xếp cho ông ta; chừng mười phút là đủ rồi.’

Milly nói, ‘ Được rồi. Tôi sẽ thu xếp trong sáng nay.’

Nhấp ngụm cà phê, Howden hỏi, ‘ Ở ngoài đó, công việc có bộn bề lắm không?’

Milly lắc đầu, ‘ Từ từ rồi cũng xong. Tôi đã chuyển một số việc khẩn cho ông Prowse rồi.’

Thủ tướng gật đầu vừa ý. ‘ Tốt. Cô cứ làm hết sức. Những việc này còn cần vài tuần nữa.’

Nhiều khi ông có cảm giác nhớ Milly lạ lùng, dù rằng sự ham muốn thể xác từ lâu rồi không còn nữa. Ông vẫn thường tự hỏi làm sao việc ấy lại xảy ra… mối tình giữa họ ấy; nỗi xúc động nồng nàn. Rồi là sự cô đơn mà những nghị sĩ quốc hội chiếu sau vẫn phải chịu đựng ở Ottawa; cảm giác trống trải vì chẳng có việc gì làm để lấp đầy những giờ dài dằng dặc khi nghị viện họp. Và vào những lúc Margaret đi vắng thường xuyên…

Nhưng hình như tất cả đã khuất xa rồi.

Milly do dự, ‘ Có một việc tôi không muốn làm ông bận tâm. Cái thư của ngân hàng. Họ báo lần nữa là trương mục của ông đã cạn.’

Kéo dòng suy nghĩ lại, Howden buồn bã nói, ‘ Tôi đã sợ là nó sẽ đến sớm.’ Ông cũng nói thế khi Margaret đưa vấn đề này ra ba ngày trước, ông thấy phẫn uất vì phải dính dấp tới những việc như thế vào một thời điểm như thế. Ông cho đó là lỗi của mình. Ông biết rằng ông chỉ việc rỉ chuyện này ra cho những người ủng hộ tài chánh giàu có của đảng và những người bạn Mỹ rộng rãi là tiền bạc sẽ đổ vào vừa nhanh vừa đầy đủ mà không có sợi dây ràng buộc nào. Những Thủ tướng khác trước ông vẫn làm vậy, nhưng Howden luôn luôn từ chối, cái chính là vấn đề danh dự. Ông lập luận rằng vợ ông đã bắt đầu bằng lòng từ tâm ở cô nhi viện và ông không muốn sau thành công của cả một đời lại phải lệ thuộc vào lòng từ tâm.

Ông nhớ lại sự quan tâm của Margaret về tốc độ biến đi trong số tiền tiết kiệm khiêm tốn của họ . Ông ra lệnh, ‘ Có lẽ cô nên gọi tổ hợp Montreal. Hỏi xem ông Maddox có thể đến gặp tôi không.’

Milly đáp. ‘ Tôi nghĩ là ông có thể cần đến ông ta nên tôi đã kiểm tra thời biểu rồi. Thời gian duy nhất ông rảnh là xế trưa ngày mai, khi ấy ông ta có thể đến được.’

Howden gật đầu hài lòng. Ông luôn luôn mang ơn tính gọn gàng mà hiệu quả của Milly.

Ông đã uống hết cà phê - thích uống nóng, ngọt và có kem – và Milly rót đầy ly khác cho ông. Dựa ngửa trong cái ghế da êm ái, ông thoải mái thưởng thức một trong những giờ phút rảnh rang trong ngày. Mười phút nữa, ông sẽ lại bận tối mặt, giải quyết công việc với tốc độ mà bộ tham mưu của ông khó mà theo kịp. Milly biết điều này và trong nhiều năm đã học được cách thư giãn trong những giờ phút ngoại lệ ấy, điều mà cô biết James Howden cũng thích. Và ông nói, một cách khoan khoái, ‘ Cô có đọc bản báo cáo chưa?’

‘ Về Hội đồng Quốc phòng?’

Nhón thêm một cái bánh chocolate, Howden gật đầu.

Milly nói, ‘ Có. Tôi đọc rồi.’

‘ Cô nghĩ sao?’

Milly suy nghĩ. Vì câu hỏi có vẻ như ngẫu nhiên, cô biết câu trả lời phải thành thật. James Howden có lần bảo cô ra ý than phiền, ‘ Tôi mất đến nửa thời gian để tìm cho ra người ta nghĩ gì, họ không nói sự thật với tôi; mà tôi chỉ thích những gì họ tin mà thôi.’

Milly nói, ‘ Tôi tự hỏi chúng ta còn lại gì, với tư cách là dân Canada. Nếu việc đó xảy ra – tôi muốn nói Hiệp ước Liên minh – tôi không hiểu làm sao chúng ta trở lại như trước được nữa.’ Howden nói, ‘ Không. Tôi cũng không nốt.’

‘À, thế thì, nó không phải chỉ là sự bắt đầu cho một quá trình nuốt chửng sao? Cho tới khi chúng ta là một phần lãnh thổ của Hoa Kỳ. Cho tới khi tất cả nền độc lập của chúng ta biến mất.’ Hỏi như thế chứ Milly vẫn nghĩ: có phải là vấn đề không khi nó là sự thật? Thực ra, độc lập là gì nếu không phải là ảo tưởng mà người ta vẫn nói về? Không có ai thực sự được độc lập hay có thể độc lập, các quốc gia cũng vậy thôi. Cô tự hỏi, Brian Richardson cảm thấy thế nào; cô chỉ muốn được nói chuyện với ông ta về việc này ngay bây giờ.

Howden chậm rãi nói, ‘ Có lẽ chúng ta sẽ bị nuốt chửng hay hình như vậy trong một thời gian. Cũng có thể là sau chiến tranh, nó sẽ chứng minh một cách khác tương tự.’ Ông ngừng lại, bộ mặt dài ngoằng tư lự, rồi tiếp, ‘ Milly, cô biết đấy. Chiến tranh có cách để thay đổi mọi việc; để làm kiệt quệ các quốc gia và làm suy vong các đế quốc và đôi khi, những kẻ nghĩ rằng họ thắng một cuộc chiến mà thật ra là thua trận. La Mã đã chứng minh điều đó; nhiều nước khác cũng như vậy, Philistine, Hy Lạp, Tây Ban Nha, Pháp , Anh.. Điều tương tự cũng có thể xảy ra cho Nga Sô hay Hoa Kỳ, hay có lẽ rốt cuộc là cả hai, còn lại Canada mạnh nhất.’ Ông dừng lời, rồi lại thêm ; ‘ Một dân tộc sai lầm là khi cho rằng những thay đổi lớn lao của lịch sử xảy ra vào những thời đại khác chứ không phải trong thời đại của họ.’

Trong tâm trí Howden còn một ý nghĩ nữa không thốt ra thành lời. Thủ tướng Canada có thể dễ dàng có ảnh hưởng trong một liên minh song phương hơn là trong nền độc lập toàn vẹn. Ông có thể là một trung gian với đầy đủ quyền hành và thế lực lại có thể được tán trợ và mở rộng, Và sau rốt – nếu Howden là người nắm lấy nó, quyền hành này có thể được sử dụng vì lợi ích của đất nước ông. Điều quan trọng, chìa khóa của quyền lực, là không bao giờ để cho sợi chỉ cuối cùng của nền độc lập Canada đứt mất.

Milly nói, ‘ Tôi nhận thấy việc dời các căn cứ tên lửa lên phía bắc là điều quan trọng, và tôi hiểu những gì ông nói về việc cứu vãn những vùng đất sản xuất lương thực khỏi bị tàn phá. Nhưng chúng ta đang thực sự hướng tới chiến tranh; đó là những gì có ý nghĩa, phải không?’

Ông có nên thổ lộ quan niệm riêng của ông về khả năng chiến tranh không tránh khỏi và yêu cầu phải chuẩn bị những điều kiện để sống còn không? Howden quyết định là không nên. Đó là một nội dung ông cần phải che dấu công luận và có lẽ phải thực hiện ngay bây giờ.

Ông nói một cách cẩn thận, ‘ Milly, chúng ta đang chọn sân và chúng ta làm việc này khi mà sự chọn lựa còn có ý nghĩa. Dưới một hình thức nào đó, hãy tin những gì ta đang làm, đó là sự chọn lựa duy nhất ta nên làm. Nhưng đang có có khuynh hướng muốn thoái thác; để tránh khỏi quyết định; để ngồi khoanh tay mà hy vọng sự thật đắng cay sẽ biến mất.’ Ông lắc đầu, ‘ Nhưng không còn nữa đâu.’

Tò mò, cô hỏi, ‘ Không khó lắm chứ - việc thuyết phục người dân ấy ?’

Thủ tướng thoáng mỉm cười, ‘ Tôi mong thế. Có thể làm một cái gì đó dữ dội quanh nơi chốn này.’

Milly nói, ‘ Trong trường hợp đó, tôi sẽ cố đưa nó vào vòng trật tự.’ Nói xong, cô cảm thấy dâng lên trong lòng sự cảm động và khâm phục con người này, con người mà trong nhiều năm qua, cô đã nhìn thấy thành đạt như thế nào và bây giờ lại chuẩn bị đưa vai ra gánh vác nhiều hơn nữa. Không phải là cảm giác vội vàng, xưa cũ mà cô đã từng biết qua nhưng là một cảm giác sâu xa hơn, cô muốn bảo vệ và che chở cho ông. Cô sung sướng có cảm giác được cần đến.

James Howden nhỏ nhẹ nói, ‘ Milly, cô luôn đưa mọi việc vào vòng trật tự. Điều đó có ý nghĩa rất lớn

với tôi.’ Ông đặt tách cà phê xuống – dấu hiệu cho thấy thời gian ngoại lệ đã chấm dứt.

Sau bốn mươi lăm phút và ba cuộc hẹn nữa, Milly đưa Harvey Warrender vào.

Giọng Howden lạnh lùng, ‘ Mời ngồi.’

Ông Bộ trưởng Dân quyền và Di trú, cao kều và mập phệ ngồi vào ghế đối diện bàn làm việc. Ông nhấp nhổm không yên.

Ông nói, cố tỏ ra chân thành, ‘ Này Jim, nếu anh gọi tôi vào để nói rằng đêm nọ tôi đã làm một việc ngu xuẩn, thì anh hãy cho tôi nói trước. Tôi đã là một thằng ngu và tôi hết sức ân hận.’

Howden chua chát, ‘ Đáng tiếc, ân hận cũng trễ rồi. Hơn nữa, nếu ông muốn xử sự như một thằng say, thì buổi tiếp tân của ngài Toàn quyền không phải chỗ để giở trò. Tôi cho rằng ông cũng biết chuyện này đã lan khắp Ottawa ngày hôm qua.’ Ông bất mãn thấy rằng bộ đồ con người này mặc cần phải ủi..

Warrender tránh cặp mắt sáng quắc trên cái mũi diều hâu của Thủ tướng. Ông phẩy tay như tự trách mình, ‘ Tôi biết, tôi biết.’

‘ Tôi đã được minh chứng đầy đủ để yêu cầu ông từ chức.’

Harvey Warrender chồm tới trước, những giọt mồ hôi rịn trên cái trán hói, ‘ Thủ tướng, tôi mong ông đừng làm vậy. Tôi thành thật mong ông đừng làm.’ Howden tự hỏi có sự đe dọa nào không ngầm chứa trong giọng nói và câu nói này. Khó mà chắc chắn được. Warrender mỉm cười nhẹ nhàng nói – ông đã lấy lại vẻ tự tin thường lệ… ‘ Nếu tôi có thể nói thêm thì, nói như Virgil, graviora quaedum sunt remedia periculis, nghĩa bóng như thế này, “ có vài phương thuốc còn độc hại hơn cả sự nguy hiểm nữa.”

Howden tức giận quát, ‘ Cũng vẫn còn sợi dây để cột con lừa kêu nhặng xị kia, nghe chưa.’ Câu trích dẫn cổ văn của gã làm ông bực. Và Thủ tướng mím chặt môi, nói tiếp, ‘ Tôi cũng muốn nói rằng tôi đã quyết định không có hành động nào ngoài việc báo trước. Tôi yêu cầu ông đừng chọc tức tôi để làm tôi thay đổi ý định.’

Warrender đỏ mặt và nhún vai. Ông thì thào, ‘ Phần còn lại là yên lặng.’

‘ Lý do chính để mời ông vào đây là vụ nhập cư mới đây ở Vancouver. Đó hình như là tình trạng rắc rối mà tôi khẳng định là chúng ta phải tránh.’

Mắt Harvey Warrender sáng lên vẻ quan tâm, ‘ À, à! Tôi đã có báo cáo đầy đủ về vụ này, tôi có thể cho ông biết tất cả về chuyện đó.’

James Howden sốt ruột nói, ‘ Tôi không cần nghe. Công việc của ông là điều hành Bộ do ông phụ trách. Tôi còn những việc quan trọng hơn.’ Ông đảo mắt nhìn sang những tập hồ sơ để mở về tình hình bố phòng liên lục địa; ông lo lắng phải trở lại vấn đề này. ‘ Điều tôi cần đối với vụ này là phải giải quyết vấn đề báo chí đi.’

Warrender nhíu mày, ‘ Ông có mâu thuẫn không đấy? Một đằng ông nói tôi điều hành Bộ của tôi, một đằng khác phải giải quyết cái vụ…’

Howden giận dữ cắt ngang, ‘ Tôi đang nói ông phải theo đúng chính sách của chính phủ - chính sách của tôi : nghĩa là phải tránh những trường hợp nhập cư có thể đưa đến tranh cãi. Nhất là vào lúc này, cuộc bầu cử năm tới đã gần kề và,’ ông lưỡng lự - ‘ còn những việc nữa sẽ xảy ra. Chúng ta đã thu xếp tất cả vào cái đêm ấy rồi.’ Và chua chát thêm, ‘ Hay có lẽ ông không nhớ?’

Bây giờ đến cơn giận của Harvey Warrender ,’ Tôi không phải là thằng say gì sất! Tôi đã nói với ông tôi nghĩ thế nào về cái gọi là chính sách nhập cư của chúng ta và nó cần hoạt động như vậy. Hoặc là chúng ta tìm ra vài phương thức mới , bộ luật nhập cư chân thật chấp nhận những gì ta đang làm, và những gì mà các chính phủ trước ta…’

‘ Chấp nhận cái gì ?’

James Howden đứng dậy. Ngước nhìn ông, Harvey Warrender nói khi nhẹ nhàng , khi gay gắt , ‘ Chấp nhận chúng ta có một chính sách phân biệt, và sao lại không – đấy là xứ sở của ta mà, phải không? Chấp nhận ta có một rào chắn về màu da và hạn ngạch về chủng tộc, chúng ta ngăn cấm người da đen và người Đông phương, đường lối nó vẫn luôn luôn như vậy, tại sao ta lại phải thay đổi nó? Chấp nhận là ta muốn có người Anglo-Saxon và ta cần một số người thất nghiệp làm vốn. Hãy chấp nhận là có hạn ngạch chặt chẽ đối với người Ý và tất cả những dân khác, ta cũng để mắt trông chừng dân Thiên chúa La Mã. Ta hãy thôi làm kẻ giả dối đi. Ta hãy viết một bộ luật nhập cư chân thật , gọi tên sự việc theo đúng bản chất của nó. Ta hãy thôi nói một đằng ở Liên Hiệp Quốc, thân thiện với người da màu, rồi làm một nẻo ở tại đất nước…’

Ngờ vực, gần như thì thào, James Howden thốt, ‘ Anh có điên không ?’ Ông dán mắt vào Warrender. Ông nghĩ, tất nhiên, ta đã có được một dấu vết: những gì đã nói ra ở dinh Toàn quyền… nhưng ông coi đó là hậu quả của rượu… Ông nhớ lại lời Margaret : Đôi khi em nghĩ Harvey có hơi điên.

Harvey Warrender thở nặng nhọc, lổ mũi ông phập phồng. Ông trả lời, ‘ Không. Tôi không điên; chỉ mệt vì thói đạo đức giả chó chết.’

Đã hết giận, Howden nói, ‘ Chân thật là tốt. Nhưng như thế là tự sát về mặt chính trị.’

‘ Làm thế nào ta biết nếu không có ai thử làm? Làm thế nào ta biết được người dân không muốn nghe những gì họ đã biết?’

James Howden bình tĩnh hỏi, ‘ Ông muốn thay đổi gì?’

‘ Ông muốn nói nếu như ta không viết một đạo luật nhập cư mới?’

‘ Phải.’

Harvey Warrender nói một cách cương quyết, ‘ Tôi sẽ nhấn mạnh điều mà chúng ta phải thực hiện ngay về đường lối. Tôi nhấn mạnh nó mà không có ngoại lệ hay ngụy tạo hay dùng biện pháp đi cửa sau để tránh những chuyện không hay bị lọt ra báo chí. Có lẽ như thế sẽ cho thấy nghĩa là thế nào.’

James Howden tỉnh như không, ‘ Trong trường hợp đó, tôi muốn ông từ chức.’

Hai người nhìn vào mặt nhau. Harvey Warrender nói khẽ, ‘ Ồ, không. Không.’ Yên lặng.

James Howden nói, ‘ Có gì trong đầu ông không?’

‘ Tôi nghĩ là anh biết.’

Nét mặt Thủ tướng vẫn thản nhiên, mắt không hề chớp. ‘ “ Rõ ràng” là chữ tôi dùng’

Harvey Warrender đã ngồi yên. Và nói như đang bàn công việc bình thường, ‘ Tốt lắm, nếu đó là điều

anh muốn. Chúng ta đã có thỏa thuận.’

‘ Chuyện đó xưa lắm rồi.’

‘Thỏa thuận không có điều kiện đó.’

‘ Dẫu sao , nó cũng đã đầy đủ.’

Harvey Warrender bướng bỉnh lắc đầu, ‘ Thỏa thuận không có điều kiện.’ Ông lục túi, lấy ra một tờ giấy, ném lên bàn Thủ tướng, ‘ Đọc đi rồi anh sẽ thấy.’

Howden thấy tay mình run lên khi chồm người tới trước. Nếu đây là bản chính, bản duy nhất… Nó là một bản chụp.

Trong một thoáng ông mất bình tĩnh, ‘ Ông là đồ ngu !’ Mặt kẻ đối diện trắng bệch, ‘ Tại sao?’

‘ Ông có một bản chụp…’

‘ Không ai biết cái gì được chụp lại? Hơn nữa, tôi đứng ngay cái máy.’

‘ Hình chụp có âm bản.’

Warrender bình tĩnh, ‘ Tôi có âm bản. Tôi giữ nó trong trường hợp tôi cần có nhiều bản sao. Bản chính cũng ở nơi an toàn.’

Ông khoa tay, ‘ Sao anh không đọc? Đó là cái chúng ta đang nói đến.’

Howden cúi đầu xuống và những dòng chữ hiện ra trước mắt ông. Chúng đơn giản, từng điểm một, viết bằng chữ của chính ông.

 

  1. Harvey Warrender rút lui khỏi quyền lãnh tụ đảng; sẽ ủng hộ James Howden.
  2. Cháu của Harvey Warrender (H. O’ B.) được – độc quyền truyền hình.
  3. Harvey Warrender có chân trong nội các Howden – chọn một bộ tùy ý (ngoại trừ Bộ Ngoại giao và Y tế). J.H. không cách chức H.W. trừ khi phạm lỗi hay có tai tiếng. Trong trường hợp sau, H.W. chịu trách nhiệm hoàn toàn, không liên quan tới J.H.

Rồi đến dòng ngày tháng – chín năm trước – và chữ ký tắt của cả hai.

Harvey Warrender bình tĩnh nói, ‘Anh thấy đó – như tôi đã nói, thỏa thuận không có điều kiện.’

Thủ tướng chậm chạp nói, ‘ Harvey, tiết lộ ra có tốt gì cho ông không? Chúng ta là bạn…’ Đầu óc quay cuồng. Một bản sao, trong tay chỉ một phóng viên thôi, sẽ là bản án tử hình. Không thể giải thích, không biện minh, không sống sót về chính trị, chỉ có phơi bày, nhục nhã… Tay ông rướm mồ hôi.

Con người kia lắc đầu. Howden nhìn thấy một bức tường sừng sững… vô nghĩa lý, không chấp nhận được. Ông thử lại lần nữa. ‘ Harvey này, đã no cơm ấm cật rồi, mà còn nhiều nữa. Đòi thêm gì bây giờ?’ Warrender tựa sát vào bàn, giọng rít lên cay độc, ‘ Tối báo cho anh biết! Hãy để tôi ở lại, hãy để tôi làm một cái gì xứng đáng để cân bằng lại tình thế. Có lẽ nếu như ta viết lại bộ luật nhập cư và thực hiện nó một cách trung thực – gọi tên sự việc đúng như ta thực hiện nó – thì có lẽ người dân sẽ thức tỉnh lương tâm và muốn sửa đổi. Có lẽ cách ta đang thực hiện phải được sửa đổi, phải chăng xét cho cùng, chính sửa đổi là điều cần thiết. Nhưng ta không thể bắt đầu mà không tỏ ra trung thực trước cái đã.’

Howden bối rối lắc đầu, ‘ Ông nói lộn xộn quá, tôi không hiểu.’

‘ Để tôi thử giải thích. Anh nói đến chuyện no cơm ấm cật. Anh có nghĩ là tôi có chú ý đến chuyện đó không? Anh có nghĩ là tôi không muốn trở lại và không đạt được sự thỏa thuận giữa hai chúng ta nếu như điều đó có thể thực hiện? Tôi nói cho anh biết, đã có nhiều đêm, tôi cứ nằm mở mắt cho đến sáng, nguyền rủa tôi và cái ngày mà tôi làm việc đó.’

‘ Harvey, tại sao vậy? Có lẽ người ta cứ nói toạc ra thì lại đỡ hơn…cái gì đấy có thể đỡ hơn…’

Warrender nói, giọng xúc động, ‘ Tôi bán đứt, có phải không? Bán đứt để lấy một đống hổ lốn không đáng giá. Từ đó đến nay, tôi đã nói đến cả ngàn lần, được trở lại phòng họp đó và tôi sẽ lại có cơ hội đương đầu với anh – theo đúng cách.’

Howden nhẹ nhàng nói, ‘ Harvey, tôi nghĩ là tôi vẫn sẽ thắng.’ Ông bỗng thấy lòng mình cảm động. Ông nghĩ, tội lỗi của chúng ta lại sống dậy – dưới hình thức này khác, tùy theo mỗi người chúng ta.

Warrender nói chậm chạp, mắt ngước lên, ‘ Tôi cũng không chắc. Tôi chưa bao giờ dám chắc, tôi sẽ ngồi ở cái bàn này, thay vì anh.’

Howden nghĩ, vẫn là thế : với mức độ như ông đã hình dung, có thêm một chất phụ gia nữa. Lương tâm cộng thêm giấc mơ quyền lực vẫn xen ngang. Nó tạo nên một hỗn hợp khủng khiếp. Ông dè dặt hỏi, ‘ Ông không mâu thuẫn đấy chứ? Một đằng ông nghuyền rủa thỏa thuận của chúng ta, rồi lại cứ khăng khăng cắt đứt những điều kiện trong đó.’

Harvey Warrender lấy khăn tay lau mồ hôi đang tuôn đầy trên trán, ‘ Đó là phần tốt đẹp mà tôi muốn cứu vãn, nếu tôi để anh lôi tôi ra, chắc tôi chết mất. Đấy là lý do khiến tôi cố giữ lấy nó.’ Ông ngừng lại một chút, rồi nhẹ nhàng nói thêm, ‘ Đôi khi tôi nghĩ có lẽ tốt hơn nếu ta cứ phơi bày ra. Cả hai ta đều là kẻ dối trá – anh và tôi ấy. Có lẽ đó là cách để giải quyết sự căng thẳng.’

Điều này thật nguy hiểm. Howden nói nhanh, ‘ Không. Hãy tin tôi. Còn có những phương pháp tốt hơn.’ Bây giờ ông đã chắc chắn một điều : Harvey không ổn định về tinh thần. Phải dẫn dắt ông ta, dỗ dành nếu cần, như một đứa trẻ.

James Howden nói, ‘ Tốt lắm, ta hãy quên chuyện từ chức đi.’

‘ Còn Luật Nhập cư ?

Hứa hẹn cũng phải có giới hạn, Howden nói dứt khoát, ‘ Luật này cứ giữ nguyên vậy. Còn gì thêm nữa,

thì tôi muốn phải giải quyết tình hình ở Vancouver đi đã.’

Warrender nói, ‘ Tôi sẽ hành động theo luật. Tôi sẽ xem lại nó, tôi hứa với ông vậy. Nhưng theo luật – đúng y như luật.’

Howden thở dài. Phải làm thôi. Ông gật đầu ra dấu cuộc hội kiến đã kết thúc.

Khi Warrender đi rồi, ông ngồi lặng lẽ, cân nhắc lại cái vấn đề không hợp thời chút nào này đang cuộn lên trong lòng ông. Ông quyết định sẽ là một lỗi lầm nếu cố giảm thiểu tối đa mối đe dọa tới sự an toàn của riêng ông. Tính khí Warrender thay đổi luôn; hiện giờ cái tính bất nhất này lại gia tăng nhiều lần.

Nói tóm lại, ông tự hỏi làm sao ông lại làm cái việc ấy … liều lĩnh chấp nhận tờ giấy mà kinh nghiệm và chuyên môn về luật pháp đã báo trước cho ông sự nguy hiểm. Nhưng tham vọng đã khiến người ta làm những việc thật kỳ lạ, thật mạo hiểm , cực kỳ mạo hiểm và, người ta vẫn cứ làm. Nhìn ngược dòng thời gian, điều này có vẻ man rợ và vô lý. Song le, thời nay, khi tham vọng dẫn lối, thiếu tiên liệu về những gì sẽ đến…

Ông cho là, an toàn nhất là cứ để mặc Harvey Warrender một mình, ít nhất là vào lúc này. Câu chuyện hoang đường về viết lại luật pháp không đặt ra vấn đề gì tức thời. Trong bất kỳ trường hợp nào, cũng không thể khoan thứ được viên thứ trưởng của Harvey, song các công chức cao cấp lại có cách để trì hoãn những biện pháp mà họ không đồng ý. Lập pháp cũng không thể xen vào nếu Nội các không chấp thuận, dù là sự va chạm trực tiếp giữa Harvey Warrender và những thành viên khác trong Nội các là nhất thiết phải tránh.

Thế là cứ đừng làm gì cả và hãy hy vọng điều tốt đẹp nhất xảy ra – một phương thuốc trị bá bệnh cũ rích trong chính trị. Brian Richardson hẳn sẽ không hài lòng : ông ta rõ ràng là chờ đợi những hành động mau lẹ, dứt khoát, nhưng không thể nào giải thích cho Richardson vì sao không hành động gì cả. Cũng tương tự như vậy, tình hình ở Vancouver sẽ phải nổ ra, chính Howden buộc phải ủng hộ Harvey Warrender trong bất kỳ điều luật nào mà Bộ Di trú áp dụng. Phải, sự quả là không may, nhưng ít nhất nó cũng là hình thức sẽ đưa đến những lời chỉ trích các biện pháp nửa vời mà chính phủ đã áp dụng trước đó, và chắc chắn chuyện chỉ trích sẽ là còn dài.

James Howden nghĩ, điều quan trọng cần nhớ, là phải lo bảo vệ quyền lãnh đạo của ông trước. Càng tùy thuộc vào nó bao nhiêu, thì hiện tại và tương lai càng vững bấy nhiêu. Ông mắc nợ điều đó đối với nhiều người để duy trì quyền lực. Vào lúc này không một ai có thể đủ tư cách thay thế ông.

Milly Freedeman nhẹ nhàng bước vào. Cô hỏi, giọng thật trầm, ‘ Ăn trưa chứ? Ông muốn ăn ở đây không?’

Ông trả lời, ‘ Không. Tôi muốn thay đổi không khí.’

Mười phút sau, với áo khoác đen cắt khéo và nón nỉ kiểu Eden, Thủ tướng bước nhanh nhẹn từ khu Đông đến lối vào Tháp Hòa Bình và nhà hàng của nghị viện. Hôm ấy là một ngày trời lạnh, trong trẻo, không khí khô và lành, trên các con lộ và vệ đường, tuyết chồng đống, khô đi dưới ánh mặt trời. Ông cảm thấy mình tràn đầy sinh lực, chân thành đón nhận lời chào kính của những người đi qua, và những tiếng hô chào của đội Kỵ binh Cảnh sát Hoàng gia Canada. Biến cố Warrender đã chìm đâu mất trong trí ông, nhường chỗ cho bao nhiêu điều lớn lao hơn.

Milly Freedeman, như mọi ngày, cho đưa cà phê và một cái bánh sandwich vào. Sau đó cô vào văn phòng Thủ tướng lấy tập giấy ghi công tác lược bỏ bớt những vấn đề chưa cần giải quyết ngay. Cô để tập giấy này trên khay công văn “đến” để trên bàn. Trên bàn giấy để vung vãi nhưng Milly không tìm cách dọn dẹp gọn gàng vì biết rằng vào quãng giữa ngày, James Howden thích tìm lại những thứ gì ở nơi ông đã để. Một tờ giấy trông bình thường lọt vào mắt cô. Tò mò lật lại, cô thấy nó là một bản chụp.

Phải đọc hai lần cô mới rõ nghĩa. Milly run cả người trước tầm quan trọng khủng khiếp của tờ giấy cô đang cầm trong tay. Nó giải thích nhiều điều mà trong bao nhiêu năm qua cô chưa hiểu được : Hiệp ước… chiến thắng của phái Howden… mất mát của riêng cô…

Cô biết, mảnh giấy này cũng gióng lên hồi kết cuộc cho hai nhà hoạt động chính trị.

Sao nó lại ở đây? Hiển nhiên nó đang được bàn đến… hôm nay… trong cuộc hội kiến giữa Thủ tướng và Harvey Warrender. Nhưng tại sao? Một trong hai đã đạt được cái gì? Và bản chính ở đâu?... Ý nghĩ của cô đang chạy đua. Những câu hỏi làm cô sợ hãi. Cô ước gì cô đã không đụng đến tờ giấy này; cô sẽ không bao giờ biết. Song le…

Bỗng nhiên trong lòng cô trào lên cơn giận James Howden. Ông ta đã làm việc ấy như thế như thế nào ? Khi giữa họ đã có mối liên hệ sâu đậm; khi họ đã có thể chia sẻ hạnh phúc, chung một tương lai, phải chi ông mất quyền lãnh đạo… thua trong thỏa ước này. Cô xúc động tự hỏi mình: tại sao ông không chơi một cách công bằng?... ít nhất cũng để cho cô một cơ hội chiến thắng? Nhưng cô biết không bao giờ cô có một cơ hội…

Thế rồi cũng gần đột ngột như thế, cơn giận tan biến, thế chỗ cho nó là nỗi buồn phiền và cảm kích . Điều Howden đã làm thì ông đã làm rồi vì ông buộc phải làm. Nhu cầu quyền lực, để chinh phục các đối thủ, để thành công trong chính trị… tất cả điều này đều chấp nhận được. Bên cạnh đó, một cuộc sống riêng tư… và cả tình yêu… đều không nghĩa lý gì. Luôn luôn là sự thật : không bao giờ có một cơ hội…

Nhưng còn những điều thực tế phải nghĩ tới.

Milly dừng lại , muốn mình suy nghĩ một cách bình tĩnh. Rõ ràng có sự đe dọa đối với Thủ tướng và có lẽ với cả những người khác. Nhưng chỉ James Howden là tất cả đối với cô… Ý nghĩa của quá khứ đang quay về. Và chỉ mới sáng nay thôi, cô nhớ là cô đã nhất quyết phải bảo vệ và che chở cho ông. Nhưng làm thế nào cô…sử dụng cái hiểu biết này… điều mà cô chắc chắn không ai có được, có lẽ ngay cả Margaret Howden cũng không. Phải, chính là điều này, cô đã thấy mình gần gũi với Howden hơn cả vợ ông.

Không có việc gì phải làm ngay. Nhưng có lẽ một cơ hội nào đó sẽ tới. Đôi khi một lá thư hăm dọa quay lại chống ngay một lá thư hăm dọa. Ý nghĩ còn phảng phất, mơ hồ… như đang lần dò trong bóng tối. Nhưng nếu nó xảy ra… nếu có cơ hội đến… cô nhất định sẽ biến nó thành hiện thực, điều mà cô đã biết.

Milly nhìn đồng hồ. Cô biết rõ thói quen của Howden. Còn nửa giờ nữa ông mới quay lại. Không ai khác ở văn phòng phía ngoài.

Như có một động lực vô hình, cô mang bản chụp này ra máy sao chụp ở bên ngoài. Hành động thật nhanh, tim cô đập thình thình khi có tiếng chân đến gần, rồi đi qua, cô cho bản chụp vào, bản sao hiện ra – phiên bản của một phiên bản – chất lượng xấu và nhòa, nhưng khá rõ để đọc và dòng chữ viết tay thì không thể lầm được. Cô vội vàng gấp bản sao lại và nhét vào đáy túi xách. Cô đem bản chụp trở lại, úp mặt xuống, như lúc cô tìm thấy nó.

Sau đó, vào buổi trưa, James Howden lật tờ giấy lên và tái mặt. Ông đã bỏ quên nó ở đây. Nếu như ông bỏ nó suốt đêm… Ông liếc nhìn ra cửa. Milly? Không, đã có một luật lệ từ lâu là bàn làm việc của ông không được xáo trộn vào quãng giữa ngày. Ông đem bản chụp vào phòng rửa mặt ở cạnh văn phòng. Xé tờ giấy thành từng mảnh vụn, ông xả nước cho nó trôi đi hết.

 

3.

 

 Harvey Warrender ngồi tựa người thoải mái, nụ cười thoáng hiện trên mặt, trong chiếc xe có tài xế lái đưa ông quay lại Bộ Dân quyền và Di trú trên đường Elgin. Xuống xe, ông đi vào tòa nhà hình hộp màu gạch nâu, chen lấn qua cả một làn sóng các nhân viên đang tràn ra đi ăn cơm trưa. Ông đi thang máy lên tầng năm và vào văn phòng riêng. Rồi vất bừa áo khoác, khăn quàng và nón trên ghế, ông đi lại bàn làm việc và nhấn nút máy liên lạc nội bộ nối trực tiếp giữa ông và viên Thứ trưởng của Bộ.

Harvey Warrender nói, ‘Ông Hess, nếu rảnh, mời ông vui lòng vào đây.’

Câu đáp nhận lịch sự không kém. Rồi ông chờ đợi. Viên Thứ trưởng phải mất vài phút mới đến được; văn phòng của ông ta, dù ở trên cùng một tầng lầu, lại ở hơi xa, như là một cách để nhắc nhở rằng người đứng đầu về mặt quản trị của một Bộ không thể được triệu đến môt cách sơ hốt hay quá thường xuyên.

Harvey Warrender đi đi lại lại trên tấm thảm dày một cách chậm chạp và tư lự. Ông vẫn còn cảm giác hào hứng trong cuộc đụng độ với Thủ tướng. Ông nghĩ, không còn nghi ngờ gì nữa, ông đã thắng, đã lật ngược tình thế, đem lại một chiến thắng áp đảo cho chính ông. Hơn thế, mối liên quan giữa hai người hiện giờ đã rõ ràng và được tái xác định chặt chẽ hơn.

Kế tiếp sự hứng khởi là cảm giác hài lòng và chiếm hữu. Đây là nơi thuộc về ông: chốn quyền lực; nếu không phải là tột bậc thì ít ra cũng ở ngôi vị thứ hai. Một cái ngai cực kỳ êm; ông vừa nghĩ thế vừa liếc quanh, như ông vẫn thường làm thế. Văn phòng riêng đủ lệ bộ này của Bộ trưởng Bộ Di trú là văn phòng xa hoa nhất ở Ottawa. Được thiết kế và bài trí với chi phí rất lớn do một bà Bộ trưởng tiền nhiệm – một trong số ít người đàn bà có địa vị trong Nội các. Khi tiếp nhận văn phòng này, ông đã giữ nó nguyên trạng – thảm màu xám sậm, màn cửa xám nhạt, sự pha trộn hài hòa những đồ gỗ thời kỳ của người Anh – và khách đến luôn bị gây ấn tượng. Nó khác biết bao với ngôi trường đại học lạnh lẽo, nơi ông đã làm việc cực nhọc nhiều năm trước đó mà chẳng được hưởng chút công lao và mặc dù lương tâm có cắn rứt như ông đã thú nhận với James Howden, ông phải thừa nhận rằng rất khó từ bỏ những tiện nghi vật chất mà địa vị và sự thành công tài chánh cung cấp.

Nghĩ đến Howden làm ông nhớ tới lời hứa của mình là phải xem xét lại tình hình chán ngắt ở Vancouver và phải hành động chính xác theo luật hiện hành. Ông sẽ giữ lời hứa. Ông nhất định sẽ không lầm lẫn hay sơ sót để cho Howden hay người nào khác có cớ xỉ vả ông về sau.

Có tiếng gõ cửa, viên thư ký riêng của ông đưa ông Thứ trưởng vào, ông Claude Hess, một công chức chuyên nghiệp, mập mạp, ăn vận như một nhà thầu giàu có, và đôi khi như một vị giám mục.

Hess nói, ‘ Chào ông Bộ trưởng.’

Như thường lệ, viên thứ trưởng có cách xử sự hợp lý vừa tôn trọng vừa thân tình, vì hãy nhớ rằng ông đã chứng kiến bao nhiêu vị Bộ trưởng được bầu chọn đến rồi đi, mà ông thì vẫn phải làm tròn bổn phận của mình.

Warrender nói, ‘ Tôi vừa đấu võ với Thủ tướng.’

Ông đã hình thành thói quen nói thẳng với Hess vì thấy là đổi lại ông sẽ nhận được những lời khuyên sáng suốt. Vì lý do này và một phần nữa vì Harvey Warrender đã là Bộ trưởng hai nhiệm kỳ liền nên họ có mối giao hảo rất thân tình.

Mặt viên Thứ trưởng lộ rõ vẻ ái ngại. Ông nói, ‘ Tôi hiểu rồi.’ Tất nhiên, ông đã nhận được qua nguồn tin hành lang của giới công chức cao cấp, đầy đủ chi tiết về việc đấu khẩu ở dinh Toàn quyền, nhưng ông khôn khéo không nhắc đến.

Harvey Warrender nói, ‘ Một trong những miếng mồi của ông ta là Vancouver. Có những người hình như không thích cách chúng ta thi hành luật’.

Tiếng thở dài của viên Thứ trưởng nghe rõ mồn một. Ông đã quá quen với những đòn đánh tháo và những trò luồn lách ở cửa sau để bẻ vặn luật nhập cư nhằm vào những mục tiêu chính trị. Nhưng điều ông Bộ trưởng nhấn mạnh kế tiếp mới làm ông ngạc nhiên.

Warrender nói, ‘ Tôi đã nói với Thủ tướng ta sẽ không lùi bước. Hoặc là thế hoặc là ta tu chính lại luật nhập cư và làm điều mà chúng ta phải làm trên tàu.’

Viên Thứ trưởng dọ hỏi, ‘ Và ông Howden…’

Warrender nói vắn tắt, ‘ Chúng ta được tự do hành động. Tôi đã đồng ý nghiên cứu lại trường hợp này, nhưng sau đó chúng ta sẽ xử lý theo cách của chúng ta.’

‘ Đó là những tin rất hay.’ Hess đặt tập hồ sơ ông đang cầm xuống và hai người ngồi vào hai ghế đối diện. Đây không phải là lần đầu, viên Thứ trưởng bệ vệ ngẩm nghĩ về sự liên hệ giữa ông Bộ trưởng của ông và Ngài James McCullum Howden. Rõ ràng có một thỏa thuận đặc biệt nào đó, vì Harvey Warrender luôn luôn có tầm hoạt động tự do bất thường so với các thành viên khác trong Nội các. Đây là một điều kiện thuận tiện, nhưng lại không bị tranh cãi, và làm cho một số chính sách của viên Thứ trưởng có thể biến thành hiện thực. Claude Hess nghĩ, những người ngoài cuộc đôi khi cho rằng chính sách này là độc quyền duy nhất trong các đại biểu được bầu. Nhưng với mức độ đáng ngạc nhiên, chính phủ gồm những đại diện được bầu chọn, lại cho đưa vào luật những tư tưởng của một thành phần chọn lọc các viên Thứ trưởng.

Bỉu môi, Hess nói một cách tư lự, ‘ Ông Bộ trưởng, tôi hy vọng ông không quan trọng hóa việc tu chính luật nhập cư. Xét về toàn thể, nó là một bộ luật hoàn hảo.’

Warrender nói vắn tắt. ‘ Tất nhiên ông sẽ nghĩ thế. Ông là người đầu tiên soạn nó mà.’

‘ Vâng, tôi phải thừa nhận rằng dựa trên một văn bản về nguồn gốc nào đó…’

Harvey nói, ‘ Tôi không đồng ý những tư tưởng của ông về dân số. Ông biết thế chứ?’

Viên Thứ trưởng mỉm cười, ‘ Trong quá trình liên hệ giữa chúng ta, tôi cũng đã thu lượm được vài điều, Nhưng nếu tôi được phép nói, thì đồng thời ông là một người thực tế.’

Warrender nói gọn lỏn, Nếu ông muốn nói tôi không thích dân Trung hoa và da đen tràn ngập Canada thì ông nói đúng đấy.’ Rồi ông tiếp, chậm rãi hơn, ‘ Dẫu sao thì đôi khi tôi vẫn tự hỏi : chúng ta đang sống trong bốn triệu dặm vuông, một trong những miền đất trù phú nhất trên thế giới. Chúng ta thiếu dân, chậm phát triển, và trái đất này đang lúc nhúc những người đi tìm đất hứa, tìm quê hương mới…’

Hess nghiêm nghị nói, ‘ Không thể giải quyết được gì bằng cách mở rộng cửa cho tất cả mọi người.’

‘Có lẽ không với chúng ta thôi, nhưng còn phần còn lại của thế giới – chiến tranh có thể lại xảy ra nếu không có lối thoát cho sự bành trướng dân số ở đâu đó.’

Claude Hess bắt tréo chân, sửa lại nếp gấp trên cái quần cắt rất khéo, ‘ Tôi nghĩ, đây là cái giá rất đắt phải trả để những cái ngẫu nhiên đừng bao giờ xảy ra. Ông Bộ trưởng, tôi có quan niệm là, chắc ông cũng biết, ảnh hưởng của Canada trên thế giới có thể lớn lao hơn, nếu trong tình hình cân bằng dân số hiện thời ta cho tràn ngập thêm những sắc tộc mà ta không mong muốn.’

Haevey Warrender nhẹ nhàng nói, ‘ Nói một cách khác, hãy bám chặt lấy những đặc quyền ta may mắn được hưởng từ lúc sinh ra.’

Viên Thứ trưởng thoáng mỉm cười, ‘ Như tôi đã nói lúc nãy, cả hai ta đều là người thực tế.’

Harvey Warrender gõ ngón tay tên mặt bàn, ‘ Phải, có lẽ anh có lý. Có những điều tôi chưa bao giờ quyết định trong đầu và đây là một. Nhưng có một điều tôi chắc chắn là dân ở đất nước này phải chịu trách nhiệm về luật nhập cư của chúng ta, phải làm cho họ nhìn nhận nó, họ sẽ không bao giờ nhìn nhận nếu ta còn do dự, còn bất nhất. Đó là lý do tại sao ta phải ép bộ luật này vào đúng đường của nó – bất chấp là đường nào – bao giờ tôi còn ngồi trên cái ghế này.’

‘ Hoan hô !’ Viên thứ trưởng bệ vệ thốt ra một cách từ tốn. Và ông ta mỉm cười.

Rồi họ yên lặng, trong khi đó Harvey Warrender nhìn chăm chăm vào một điểm nào đó trên đầu viên Thứ trưởng. Không quay lại, Hess cũng biết ông Bộ trưởng đang nhìn gì : bức chân dung bằng sơn dầu một thanh niên mặc quân phục Không quân Hoàng gia Canada. Nó được vẽ theo hình chụp sau cái chết trên chiến trường của con trai Harvey Warrender. Nhiều lần trước đó trong căn phòng này, Claude Hess đã thấy đôi mắt của người cha liếc nhìn lên bức tranh , và đôi khi họ cũng nói về nó.

Và Warrender lên tiếng, như thể nhận ra sự lưu ý của người kia, ‘ Ông biết đấy, tôi vẫn thường nghĩ đến con trai tôi.’

Hess chậm chạp gật đầu. Đây chẳng phải là một tiết lộ mới mẻ gì và nhiều khi ông đã tránh né. Hôm nay, ông nhất định phải đáp ứng.

Hess nói, ‘ Tôi không có con trai. Chỉ toàn con gái. Liên hệ giữa cha con tôi tốt đẹp thôi, nhưng tôi luôn nghĩ rằng phải có một cái gì đặc biệt lắm giữa người cha và đứa con trai.’

Harvey Warrende nói, ‘ Có đấy. Và nó không bao giờ chết hẳn – nhất là với tôi.’ Rồi ông nói tiếp, giọng ấm áp, ‘ Biết bao lần, tôi đã nghĩ con trai tôi là như thế nào. Nó là một đứa con trai tuyệt vời, luôn luôn can đảm một cách tốt đẹp nhất. Can đảm, đó là đặc điểm nổi bật nhất của nó và sau cùng nó đã hy sinh một cách anh dũng. Tôi vẫn thường tự nhủ tôi hãnh diện vì điều này.’

Viên Thứ trưởng tự hỏi nếu ông có con trai thì có phải tính cách anh hùng là cái mà ông nhớ đến. Nhưng ông Bộ trưởng đã nói nhiều về điều này từ trước, với những người khác cũng như với ông, mà không hề chán chuyện lập đi lập lại. Có khi Harvey còn mô tả bằng cả họa đồ chi tiết trận không chiến dữ dội cuối cùng con trai ông than dự đến nỗi không thể nào biết chắc được nỗi buồn phiền kết thúc ở chỗ nào và sự tôn thờ vị anh hùng của ông bắt đầu ở chỗ nào. Quanh Ottawa đã có những lời phẩm bình về chuyện này, dù người ta vẫn tỏ lòng thương xót. Claude Hess nghĩ, nỗi buồn tạo ta những chuyện kỳ cục, đôi lúc nó ngụy tạo ra nỗi buồn.

Ông lấy làm mừng khi giọng của xếp trở lại bình thường.

Warrender nói, ‘ Thôi, được rồi. Ta hãy bàn về vụ Vancouver. Có một điều tôi muốn phải chắc chắn là chúng ta phải tuyệt đối hành động theo luật. Đó là điều quan trọng.’

Hess khôn ngoan gật đầu. ‘ Vâng, tôi biết.’ Rồi cầm tập hồ sơ ông mang vào, ‘ Thưa, tôi đã nghiên cứu lại các báo cáo và tôi đoan chắc là ông không phải lo gì cả. Tuy nhiên có một việc tôi hơi quan tâm một chút.’

‘ Dư luận?’

‘ Không. Tôi nghĩ ông sẽ phải chờ. ‘ Thực sự dư luận đã làm Hess lo lắng. Ông buộc phải tin rằng áp lực chính trị sẽ làm chính phủ phải nhượng bộ trong việc thi hành luật nhập cư, như đã xảy ra nhiều lần trước đó. Cho dù ông đã lầm, nó vẫn rõ ràng như trước. Và ông nói tiếp, ‘ Điều tôi đang nghĩ là hiện giờ ta không có một người có thẩm quyền nào ở Vancouver cả. Williamson, viên thanh tra cấp quận của ta đang nghĩ bệnh, có may ra cũng vài tháng ông ta mới trở lại làm việc.’

Warrender đốt thuốc và đưa cho viên Thứ trưởng một điếu, rồi nói, ‘ Phải, tôi nhớ rồi.’

‘ Bình thường thì tôi không quan tâm đâu. Nhưng nếu áp lực gia tăng, mà có thể lắm, tôi muốn có người ở ngoài đó, người mà tôi có thể tin được, người có khả năng làm việc được với báo chí.’

‘ Tôi cho là ông đã nghĩ đến một điều gì đó.’

Hess suy nghĩ thật nhanh. Quyết định đứng vững làm ông hài lòng. Warrender nhiều khi tỏ ra kỳ quặc, nhưng Hess tin ở sự chân thành, và hiện giờ ông phải bảo vệ cho địa vị của ông Bộ trưởng bằng bất cứ cách nào. Ông trầm ngâm nói, ‘ Vâng. Tôi có thể hoán chuyển vài công việc ở đây và rút bớt một viên phó giám đốc để đưa y đến nhận trách nhiệm ở Vancouver – ta cứ lấy cớ thế đến khi nào ta biết rõ tình trạng của Williamson, nhưng thực sự là, để giải quyết trường hợp đặc biệt này.’

Warrender mau mắn gật đầu. ‘ Tôi đồng ý. Ông nghĩ ai sẽ đi?’

Viên thứ trưởng hít một hơi thuốc, khẽ mỉm cười và nói chậm rãi, ‘ Kramer. Thưa, nếu ông đồng ý, tôi sẽ đưa Edgar Kramer đi.’

 

4.

 

 Trong căn phòng của cô, Milly Freedeman bồn chồn, nghĩ lại một lần nữa những biến cố trong ngày. Vì sao cô sao lại bản chụp kia ? Với nó, cô có thể làm gì được, nếu như có cái để làm ? Lòng trung thành thật sự của cô nằm ở đâu ?

Cô ước gì kết thúc được âm mưu này và những hành động mà cô phải chia sẻ. Nếu như trở lại một, hai ngày trước, chắc cô sẽ từ bỏ chính trị, từ bỏ James Howden và bắt đầu một cuộc đời mới. Cô tự hỏi, có một nơi nào đó, bất kỳ, ở giữa hai người nào đó, nơi không bao giờ có chuyện lọc lừa. Xét cho cùng, cô cũng ngờ điều này lắm.

Chuông điện thoại reo cắt đứt dòng suy nghĩ.

Giọng Brian Richardson hào hứng, ‘ Milly này, Raoul Lemieux – đại diện của Bộ Thương mại và Mậu dịch và là bạn anh – có tổ chức một bữa tiệc. Mời cả hai ta. Em nghĩ thế nào ?’

Tim Milly đập hụt một nhịp. Cô nôn nóng hỏi, ‘ Vui chứ ?’

Viện trưởng ban nhân sự đảng chậc lưỡi, ‘ Tiệc của Raoul thường là thế.’

‘Ồn ào không ?’

Richardson nói, ‘ Lần vừa rồi, hàng xóm phải gọi cảnh sát.’

‘ Có nhạc không ? Ta có được nhảy không ?’

‘ Có cả một chồng đĩa; ở nhà Raoul, cái gì cũng sẵn.’

Milly nói, ‘ Em sẽ đi. Ôi, thích quá. Em sẽ đi.’ Giọng ông vui vẻ, ‘ Nửa tiếng nữa, anh đến đón.’ Cô nồng nàn nói, ‘ Cám ơn, Brian. Cám ơn anh.’

‘ Em hãy cám ơn anh sau.’ Và tiếng clic lúc đường dây ngắt.

Cô biết đúng bộ đồ nào cô sẽ mặc; đó là bộ vải the mỏng đỏ sậm, cổ thấp. Hào hứng, như cảm giác được giải thoát, cô đá đôi giày ngang qua phòng khách.

 

Chương 8

 

 EDGAR KRAMER

 

 1.

 

 

Trong suốt ba mươi sáu giờ ở Vancouver, Edgar S. Kramer đã đi đến hai kết luận. Thứ nhất, ông quyết định là không có vấn đề nào ở bộ phận phụ trách duyên hải phía tây của Bộ Dân quyền và Di trú mà ông không thể giải quyết một cách dễ dàng. Thứ hai, ông buồn rầu nhận thức rằng căn bệnh trong con người ông đang dần dần trở nên tệ hại.

Trong căn phòng vuông vức, bài trí đúng chức năng trên tầng hai của trụ sở Bộ Di trú, ở đối diện bờ biển, Edgar Kramer ngẩm nghĩ cả hai vấn đề này.

Kramer, mắt xám, gầy gò, hơn 40 tuổi, tóc nâu dợn sóng rẽ đường ngôi giữa, kiếng không gọng và một bộ óc phân tích sắc sảo đã đưa ông tiến xa, từ một địa vị khởi đầu khiêm tốn, trong nghề công chức. Ông siêng năng, trung thực, công bằng và theo đúng những nguyên tắc điều hành đến từng chữ một. Ông ghét tình cảm lôi thôi, tính làm việc không hiệu quả, không tôn trọng luật lệ và phép tắc. Một đồng nghiệp có lần từng nhận xét là, ‘ Edgar dám cắt cả tiền hưu bỗng của mẹ đẻ ra mình nếu có một dấu phẩy đặt không đúng chỗ trong đơn xin.’ Lời nhận xét này dù là phóng đại vẫn có một phần sự thật, nó cũng tương tự như nói rằng Kramer sẽ giúp đỡ kẻ thù không đội trời chung một cách tận tình nếu như nguyên tắc công việc đòi hỏi như thế.

Ông đã lập gia đình, không có con, với một người đàn bà tầm thường. Bà này chỉ trông nom nhà cửa một cách gọi là. Bà đang đi lùng nhà trong những khu mà bà cho là đáng kính và thích hợp với địa vị của chồng.

Trong giới công chức cao cấp, Edgar S. Kramer trở nên một trong vài người đáng chú ý, tìm cách – phần lớn do khả năng và một phần do tài gây sự chú ý – để đạt địa vị cao hơn. Trong Bộ Di trú, ông được xem như một tay đáng tin cậy chuyên giải quyết các vụ rắc rối, đó là một dấu hiệu chắc chắn cho thấy trong vòng vài năm, ông sẽ được thăng chức và trước khi về hưu, ông sẽ đủ tư cách để được chọn làm Thứ trưởng.

Ý thức đầy đủ về địa vị đáng ao ước này và vốn nhiều tham vọng, Edgar Kramer thường xuyên đi tìm chỗ dựa để củng cố. Ông vui sướng khi được giao trách nhiệm tạm thời ở Vancouver, nhất là biết rằng chính Bộ trưởng đồng ý chọn ông và đang trông đợi kết quả công việc của ông. Chỉ riêng lý do này thôi, vấn đề của cá nhân ông làm ông khổ sở không thôi rất có thể lại hợp thời.

Nói một cách giản dị, vấn đề đó là thế này : Edgar Kramer phải đi tiểu một cách đau đớn và ông rất xấu hổ vì chuyện này.

Chuyên viên về niệu học, người mà bác sĩ riêng của ông gởi ông đến khám mấy tuần trước đã kết luận bệnh trạng như sau : “ Ông Kramer, ông bị viêm nhiếp hộ tuyến và nó phải tệ hơn nữa rồi mới khá lên được.” Ông ta mô tả các triệu chứng đáng buồn : đi tiểu thường xuyên mỗi ngày, chảy tháo như suối vào cuối tuần, và ban đêm là một khúc ca ai oán – nhu cầu phải dậy tiểu tiện làm gián đoạn giấc ngủ để đến hôm sau mệt đừ và dễ cáu bẳn.

Ông có hỏi tình trạng này diễn ra trong bao lâu, vị chuyên viên nói ra điều thông cảm ‘ Tôi e là ông phải chịu đựng trong hai hoặc ba năm cho tới khi có thể giải phẩu được, Lúc đó chúng tôi sẽ cắt bỏ mới làm ông thấy dễ chịu hơn .’

Đó chỉ là một chút an ủi. Đáng chán hơn nữa là khi ông nghĩ rằng, thượng cấp sẽ biết ông bị một chứng bệnh của người già trước thời hạn. Sau tất cả những nỗ lực của ông – những năm tháng miệt mài làm việc, mà phần thưởng đã nằm trong tầm tay – ông sợ chuyện này sẽ có hậu quả rất xấu.

Cố quên đi trong giây lát, ông quay về với những tập hồ sơ trải rộng trên bàn trước mặt ông. Bằng bàn tay gọn gàng, sạch sẽ, ông phân loại những công việc đã giải quyết từ khi ông đến Vancouver và những kế hoạch kế tiếp. Xét chung, ông thấy rằng trụ sở ở khu vực này được sắp xếp đâu ra đó và hoạt động tốt. Dù vậy có vài biện pháp cần được duyệt xét lại, xiết chặt các nguyên tắc hơn và có một thay đổi nữa, ông đã quyết định xong.

Chuyện đó xảy ra ngày hôm qua vào giờ ăn trưa khi ông nếm thử thức ăn phân phát cho tù nhân ở trại giam – những kẻ nhập lậu bị bắt, đang buồn rầu chờ bị trục xuất ra ngoại quốc. Trước sự lo lắng của ông, thức ăn, dù khá ngon miệng, nhưng lại không nóng cũng không giống như đã dọn cho ông ở quán ăn tại trụ sở. Sự kiện có một số người bị trục xuất lại sống sung sướng hơn những thời gian khác trong đời họ, có một số khác lại có thể bị chết đói trong vài tuần nữa, không tạo thành vấn đề gì cả. Luật lệ đối với tù nhân rất đặc biệt và Kramer đã gởi đến đấy viên bếp trưởng, một người cao lớn so với ông giám thị gầy gò, ốm yếu. Kramer – không bao giờ chú ý đến tầm vóc của kẻ khác – đã khiển trách nặng nề và ông yêu cầu từ giờ trở đi, thức ăn cho tù nhân phải được nấu nướng cẩn thận và nóng sốt khi phân phát cho họ.

Giờ ông bắt đầu xét đến nguyên tắc. Sáng nay có cái gì không đúng mực trong những công việc chung, ông cũng lưu ý thấy có sự sơ suất ở quần áo của các viên chức mặc đồng phục. Một người ăn mặc cẩn trọng như ông – bộ đồ đen chạy chỉ sọc luôn luôn ủi thẳng nếp, khăn tay trắng xếp ở túi áo ngực – ông hy vọng các thuộc cấp cũng giữ được cách ăn mặc như vậy. Ông bắt đầu thấy có dấu hiệu rồi dần dần ý thức được cái nhu cầu khó chịu ấy, một lần nữa, đi trút bầu tâm sự. Ông nhìn đồng hồ và thấy đã mười lăm phút kể từ lần trước. Ông nhất định là sẽ không … ông ép mình phải chờ … ông cố tập trung… Rồi một lát sau, thở dài chán nản, ông đứng dậy và rời văn phòng.

Khi quay lại, cô tốc ký trẻ đang làm thư ký cho ông, đã chờ ở văn phòng. Ông tự hỏi cô gái này có để ý đến chuyện ông ra vào bao nhiêu lần rồi không dù là ông dùng cửa thông trực tiếp với hành lang. Tất nhiên ông có thể xin lỗi là ông phải đi đâu đó trong tòa nhà này… Có lẽ phải sớm làm việc đó thôi… Ông phải tìm ra cách để thoát khỏi chuyện bị để ý.

Cô gái báo, ‘ Ông Kramer, có một ông Alan Maitland nào đó muốn gặp ông. Anh ta nói anh ta là luật sư.’

 

 

Kramer nói, ‘ Được. Mời anh ta vào.’ Và ông lấy mắt kính ra lau.

Alan đã đi bộ nửa dặm từ văn phòng của anh đến khu nhà đối diện với bờ biển, má anh đỏ ửng vì gió lạnh. Anh không đội mũ, chỉ mặc áo khoác mỏng và anh cởi ra khi bước vào nhà. Anh cầm cặp hồ sơ trong tay.

Alan nói, ‘ Chào ông Kramer. Ông thật tử tế đã tiếp tôi dù không có hẹn trước.’

Kramer nói, giọng rõ ràng và đúng mực, ‘ Tôi là đầy tớ dân’. Mỉm cười lịch sự một cách máy móc, ông ra hiệu cho Alan ngồi và ông cũng ngồi xuống nơi bàn làm việc. ‘ Cửa văn phòng tôi luôn luôn mở - nếu có lý do. Tôi có thể giúp gì anh?’

Alan nói ,’ Chắc cô thư ký đã bảo ông rồi. Tôi là luật sư.’

Kramer gật đầu, ‘ Phải.’ Ông nghĩ, trẻ và chưa có kinh nghiệm. Edgar Kramer đã từng gặp nhiều luật sư và đã so sánh với một vài người. Phần lớn đều không gây cho ông ấn tượng gì cả.

‘ Tôi có đọc báo thấy ông nhận nhiệm vụ ở đây hai ngày trước và quyết định chờ ông đến.’ Alan ý thức được công việc của mình, anh không muốn đối địch với con người nhỏ bé đang đối diện anh đây, người mà thiện ý của ông ta có thể là quan trọng. Anh có ý định, trước hết, phải tiếp cận với Bộ Di trú nhân danh Henri Duval càng sớm càng tốt sau lễ Giáng sinh. Nhưng sau khi đã bỏ ra cả một ngày để đọc luật nhập cư và các điều lệ, các báo buổi chiều trong ngày hai mươi sáu đã đăng một thông báo ngắn cho biết Bộ Di trú vừa bổ nhiệm một giám đốc mới cho khu vực Vancouver. Sau khi thảo luận việc này với Tom Lewis, anh cũng đã bí mật mở vài cuộc điều tra, thì họ quyết định – dù là phải mất mấy ngày quý báu – phải chờ người mới được bổ nhiệm đến.

‘ Phải. Tôi đến rồi. Vậy có lẽ anh sẽ cho tôi biết vì sao anh lại chờ.’ Mặt Kramer nhăn lại thành một nụ cười. Ông quyết định, nếu giúp được gì cho anh chàng luật sư tập sự này – miễn là anh ta tỏ thiện chí muốn hợp tác với Bộ - ông nhất định sẽ giúp.

Alan nói một cách cẩn thận, ‘ Tôi đến đây nhân danh một thân chủ. Anh ta tên là Henri Duval và hiện đang bị giữ trên một con tàu, chiếc Vastervik. Tôi muốn trình bày với ông, tôi có thẩm quyền hành động nhân danh anh ta.’ Anh mở cặp hồ sơ lấy ra một tờ giấy – bản sao đánh máy của lá đơn mà gã đi lậu đã ký lúc họ gặp mặt lần đầu – và đặt trên bàn. Kramer đọc cẩn thận rồi để xuống. Cái tên Henri Duval làm ông hơi nhíu mày. Rồi, tỏ vẻ dè dặt, ông hỏi, ‘ Anh Maitland, tôi xin hỏi, anh biết thân chủ anh bao lâu rồi?’

Đó là một câu hỏi bất thường, nhưng Alan không muốn tỏ ra phật ý. Dù sao Kramer hình như cũng khá thân thiện, anh vui vẻ trả lời, ‘Tôi biết đã ba ngày. Dĩ nhiên trước đó tôi có đọc báo vụ anh ta rồi.’

‘ Tôi hiểu.’ Kramer chụm các đầu ngón tay lại. Đó là cử chỉ ông hay làm khi đang suy nghĩ hay cân nhắc thời gian để tính toán. Tất nhiên ông đã nhận được báo cáo đầy đủ về trường hợp Duval ngay khi ông đến. Ông thứ trưởng Claude Hess, có báo với ông về sự lưu ý của ông Bộ trưởng là phải xử lý vụ này tuyệt đối trung thực và Kramer hài lòng đã làm được như thế. Thật ra, ông đã trả lời báo chí Vancouver về hậu quả của nó ngày hôm trước.

‘ Có lẽ ông chưa đọc các tin tức trên báo.’ Alan lại mở cặp và cho tay vào.

Kramer quyết định là sẽ tỏ ra thân thiện nhưng cứng rắn, ‘ Xin thôi. Tôi có đọc một bản tin rồi. Nhưng ta đừng tin báo chí ở đây.’ Ông hơi mỉm cười, ‘ Anh cũng hiểu là tôi có tham khảo hồ sơ chính thức, ta có thể xem xét những cái quan trọng hơn trong này.’

Alan nói, ‘ Một hồ sơ thì không nhiều đối với vụ Henri Duval. Theo như tôi hiểu, chưa có một cuộc điều tra chính thức nào được thực hiện đầy đủ cả.’

‘ Anh Maitland, anh nói rất đúng. Người ta đã làm rất ít vì tình trạng này đã quá rõ ràng. Con người trên chiếc tàu này không có nhân thân, không có giấy tờ và hiển nhiên cũng không có quyền công dân ở một nước nào cả. Do đó, theo như Bộ đã lưu ý, sẽ không có một khả năng nào, ngay cả việc cứu xét anh ta với tư cách một người nhập cư.’

Alan nói, ‘ Con người này, như ông gọi anh ta thế, có những lý do hết sức ngoại lệ để không có được quyền công dân. Nếu ông có đọc bài tường thuật trên báo, hẳn ông phải biết.’

‘ Tôi biết đã có một số bài tường thuật trên báo.’ Lại một nụ cười nhẹ, ‘ Nhưng nếu anh có nhiều kinh nghiệm như tôi, anh sẽ biết rằng giữa những câu chuyện trên báo và sự thực nhiều khi có khoảng cách đấy.’ Alan thấy thái độ của kẻ đối diện và nụ cười khi tắt khi hiện bắt đầu làm anh bực mình, ‘ Tôi không tin bất cứ cái gì dù tôi đọc hay chưa. Điều tôi đang yêu cầu – và đó là lý do khiến tôi có mặt ở đây – là ông hãy cho điều tra vấn đề này thêm một chút nữa.’

‘ Và cái tôi đang nói với anh là bất kỳ cuộc điều tra nào khác cũng chẳng đi tới đâu.’ Lần này giọng Edgar Kramer lạnh lùng thấy rõ. Ông cảm thấy khó chịu, có lẽ vì mệt mỏi – hậu quả ông phải dậy nhiều lần và sáng nay thức dậy mà gần như chẳng được nghĩ ngơi chút nào. Ông nói tiếp, ‘ Cá nhân đó đã được lưu ý là không có một quyền gì ở nước này, và anh ta cũng không thể có được một quyền nào cả.’

Alan phản đối, ‘ Anh ta là một con người. Điều này không được đếm xỉa đến sao ?’

‘ Có quá nhiều con người trên thế giới, có người kém may mắn hơn người khác. Công việc của tôi là giải quyết những trường hợp đến trong giới hạn của luật nhập cư, còn Duval thì không.’ Kramer nghĩ, tên luật sư này rõ ràng không có thái độ hợp tác.

Alan nói, ‘ Tôi đang yêu cầu có một báo cáo chính thức để đưa vào hồ sơ tình trạng nhập cư của thân chủ tôi.’

Edgar Kramer nói một cách cương quyết, Và tôi đang từ chối điều đó.’

Hai người bắt đầu nhìn nhau một cách bực tức. Alan Maitland có cảm tưởng đang đụng đầu vào một bức tường kiêu ngạo không thể chấp nhận được. Edgar thì lại thấy gã trẻ tuổi như một đống xà bần không biết nể nang nhà cầm quyền. Ông cũng đang bứt rứt vì lại muốn đi tiểu nữa. Thật khôi hài… sớm vậy. Nhưng ông để ý là sự kích động tinh thần nhiều khi đưa đến hậu quả này. Ông muốn mình đừng biết tới nó. Ông phải chịu đựng… đừng có nhượng bộ…

‘ Chúng ta không thể thông cảm nhau về chuyện này được sao ?’ Alan tự hỏi có phải anh đã quá cộc cằn; đấy là một lỗi lầm ngẫu nhiên mà anh đã cố tránh. Và anh hỏi – với hy vọng thuyết phục được – ‘ Ông Kramer, ông có vui lòng ban cho đặc ân là sẽ đi gặp con người này không ? Tôi nghĩ ông sẽ có ấn tượng.’

Ông ta lắc đầu, ‘ Dù tôi có ấn tượng hay không, cũng không thành vấn đề gì cả. Công việc của tôi là điều hành luật lệ như nó vốn có. Tôi không tạo ra luật lệ cũng không chấp nhận ngoại lệ đối với nó.’

‘ Nhưng ông có thể sửa lại được.’

Edgar Kramer nghĩ, phải ông có thể. Nhưng ông không có ý định làm thế, nhất là trong trường hợp này khi có sự phụ họa về tình cảm và nếu có cuộc thẩm vấn riêng với kẻ sẽ - là dân nhập cư, thì tình trạng nhân thân của y sẽ vượt lên trước rất xa.

Đã có một thời, khi ông còn làm những công việc thẩm vấn loại này - ở hải ngoại, sau chiến tranh, trên những đất nước Âu châu tan hoang… tuyển chọn dân nhập cư vào Canada và từ chối những người khác trong cùng một cách tương tự  (ông nghe có người nói như vậy) như người ta chọn những con chó tốt nhất trong cùng một chuồng vậy. Đó là những người đàn ông và đàn bà phải bán cả linh hồn, và có người làm vậy chỉ để có thông hành nhập cư, các viên chức nhập cư bị vô số điều quyến rũ, và có vài người đã mềm lòng. Nhưng ông thì không hề rung động. Dù không thích thú với công việc này lắm – ông thích việc quản lý con người hơn – ông vẫn thực hiện nó hoàn hảo.

Ông có tiếng là một viên chức cứng rắn, bảo vệ quyền lợi đất nước rất kỹ, chỉ chấp nhận những người nhập cư có tiêu chuẩn cao nhất. Ông vẫn kiêu hãnh khi nghĩ đến những người tốt đẹp… nhanh nhẹn, siêng năng, có sức khỏe … những người mà ông cho phép vào.

Việc loại bỏ những người không đủ tiêu chuẩn vì bất cứ lý do gì, không bao giờ làm ông bận tâm, như nó vẫn làm bận tâm những người khác.

Ý nghĩ của ông bị gián đoạn.

Alan Maitland nói, ‘ Tôi không yêu cầu chấp nhận thân chủ tôi như một người nhập cư – chưa thì đúng hơn – tôi đang đi tìm một giai đoạn đầu tiên – một cuộc thẩm vấn về tình trạng nhập cư ở ngoài con tàu ấy.’

Dù cố tình quên đi, Edgar Kramer cảm thấy sức ép trên bàng quang càng lúc càng tăng. Ông cũng thấy giận mình vì cho là ông có thể thua trước một mưu mẹo cũ rích và sơ đẳng của gã luật sư. Ông đốp chát, ‘ Anh Maitland, tôi hiểu rõ anh đang yêu cầu điều gì. Anh yêu cầu Bộ phải chính thức công nhận con người này, rồi chính thức đuổi y ra, để sau đó anh bắt đầu những thủ tục tố tụng. Khi đã xong hết những giai đoạn kháng cáo một cách chậm chạp, nhưng chắc ăn, rõ ràng vậy – thì chiếc tàu sẽ ra khơi và cái gọi là thân chủ của anh sẽ ở lại đây. Có phải đó là điều anh đang nghĩ trong đầu không ?’

Alan nói, ‘ Nói thật với ông, đúng vậy đấy.’ Anh cười. Đó là chiến thuật anh và Tom Lewis đã hoạch định. Nhưng bây giờ nó đã sờ sờ ra rồi còn chối vào đâu được.

Kramer quát, ‘ Đúng vậy ! Anh giở trò pháp luật rẻ tiền !’ Ông không biết rằng nụ cười thân mật và tiếng nói tự đáy lòng ấy đã lưu ý ông rằng ông đã xử lý vụ này quá dở.

Alan Maitland nhẹ nhàng nói, ‘ Đáng ghi vào sổ sách. Tôi không đồng ý đó là trò rẻ tiền hay lường gạt. Tôi chỉ muốn hỏi một câu thôi. Tại sao ông lại nói “ cái gọi là thân chủ của tôi?”’

Quá đủ. Sự khó chịu gặm mòn thể xác, nỗi lo âu kéo dài hàng tuần lễ, những đêm nhọc mệt chất chồng, tất cả phối hợp lại tạo thành một lực xoắn mà Edgar Kramer, con người khôn ngoan và có kinh nghiệm ngoại giao, chưa bao giờ nghĩ đến. Ông ý thức rõ rệt con người đang đối diện ông đây, sinh lực tràn trề, tuổi xuân phơi phới. Ông nhận xét một cách cay độc, ‘Câu trả lời rất rõ ràng, cũng như đối với tôi, rất rõ ràng là anh đã nhận trường hợp vô vọng và phi lý này chỉ vì một mục đích duy nhất – anh mong sẽ tạo được sự chú ý của dư luận đến nó.’

Những giây phút yên lặng kéo dài trong căn phòng nhỏ vuông vức.

Alan Maitland cảm thấy máu dồn lên mặt. Trong một khoảnh khắc anh nghĩ đến việc chồm qua bàn đập vào mặt gã kia.

Chuyện đổ vấy này hoàn toàn láo khoét. Không muốn dư luận chú ý, anh đã bàn với Tom Lewis làm cách nào để tránh được nó. Cả hai đều tin rằng sự chú ý của báo chí sẽ làm trở ngại những thủ tục pháp lý cho Henri Duval. Đấy là một lý do khiến anh lặng lẽ tới Bộ Di trú. Anh đã sắp sửa đề nghị trong hiện tại không tuyên bố gì với báo chí …

Ánh mắt anh gặp ánh mắt Edgar Kramer. Cái nhìn của viên công chức này dữ dội và kỳ lạ.

Anh đứng dậy, nhấc áo khoác, cắp cặp hồ sơ dưới nách và chậm rãi nói, ‘ Cám ơn ông Kramer. Cám ơn

ông rất nhiều vì đã đề nghị cái tôi đang định làm.

 

2.

Suốt ba ngày sau lễ Giáng sinh, tờ Vancouver Post đăng liên tiếp câu chuyện về Henri Duval – con người vô tổ quốc – trên trang tin thời sự. Hai tờ khác trong thành phố cũng đăng theo tuy mức độ có kém hơn – tờ đối thủ buổi chiều Colonist và tờ buổi sáng đứng đắn hơn, Globe – dù có đôi chút hoài nghi, vì tờ Post đưa vụ này ra trước tiên. Nhưng bây giờ câu chuyện đã gần như tắt dần.

‘ Dan này, chúng ta đã tấu một khúc hòa âm, thế mà chỉ gây được sự quan tâm chứ không ai hành động gì cả. Thôi ta quên nó đi chờ con tàu này rời bến trong vài ngày nữa, rồi anh hãy viết một bài cho chú nhỏ tội nghiệp này buồn nhớ quê hương đang ra khơi đi về phía mặt trời lặn.’

Lúc đó là 7g45 sáng trong tòa soạn tờ Post. Người nói là Charles Woolfendt, viên chủ bút phụ trách phần tin ban ngày, người nghe là Dan Orliffe. Woolfendt vừa sắp xếp công việc trong ngày, vừa nói, giọng nhỏ nhẹ như một học giả, nhưng với một cái đầu mà như có người nói, hoạt động giống máy tính IBM. Ông đang ngắm nghía Dan ngồi ở bàn giữa.

Orliffe nhún vai, ‘ Chuck, anh có nói gì đi nữa thì cũng vậy thôi. Tôi ước gì ta dành cho nó thêm một ngày nữa.’

Woolfendt nhìn Dan như dò xét. Ông tôn trọng nhận định của Orliffe và thấy là có lý nhưng còn những vấn đề khác cần phải cân nhắc. Hôm nay có một chuyện mới xảy ra trong phạm vi địa phương và ông cần nhiều phóng viên hơn. Có một phụ nữ đi bộ du lịch đã mất tích trên núi Seymour, ngay bên ngoài thành phố. Dù đã lùng kiếm gắt gao, người ta cũng không tìm thấy bà. Cả ba tờ báo đều theo dõi cuộc lục soát rất kỹ, và người ta đang nghi ngờ đây là âm mưu của chồng bà. Sáng nay ông chủ nhiệm đã gởi cho Woolfendt một lá thư nội dung như sau : “ Daisy ngã hay bị xô ngã ? Nếu còn sống, ta phải nắm được bà ta trước người chồng.” Woolfendtnghĩ, Dan Orliffe là người thích hợp để có mặt trên núi.

Woolfendt nói, ‘ Nếu ta chắc chắn là có chuyện quan trọng về gã đi lậu, tôi sẽ theo. Nhưng tôi không muốn nói là có một  khía cạnh khác.’

Dan đồng ý, ‘ Tôi biết, Phải cần thêm vài người nữa quan tâm đến chuyện đụng chạm. Ước gì tôi có thể bảo đảm chuyện này.’

Woolfendt nói, ‘ Nếu anh làm được, tôi cho anh thêm một ngày nữa. Còn trái lại, tôi sẽ sử dụng anh vào cuộc tìm kiếm này.’

Dan phản ứng, ‘ Cứ tiến lên.’ Anh biết là Woolfendt người mà anh đã làm việc chung rất lâu, đang thăm dò anh. ‘ Anh là xếp. Nhưng chuyện kia mới là chuyện hay hơn chứ.’

Quanh họ, những người làm ca ngày đang lục tục đến, và tòa soạn chẳng mấy chốc nhộn nhịp hẳn lên. Viên phụ tá chủ nhiệm ngồi vào chỗ bên cạnh bàn giữa. Ngang với bàn phụ trách phần tin tức chính, các bản sao bắt đầu ào ào chạy qua khe đến bộ phận sắp chữ và trình bày ở ba tầng dưới. Tiếng rì rầm đều đặn sẽ ồn lên thành một chuỗi náo động khi những tin giờ chót trong ngày đến rồi đi.

Viên chủ bút tư lự, ‘ Tôi cũng thất vọng nữa. Tôi thực sự cứ nghĩ có nhiều chuyện xảy ra cho gã đi lậu đó hơn cả anh.’ Ông đếm trên đầu ngón tay, ‘ Ta đã che chở cho gã này, chiếc tàu, phản ứng của dư luận, người ở Bộ Di trú – không ăn thua, ta đã cho kiểm tra ở hải ngoại – không kết quả; ta đã đánh điện cho Liên Hiệp Quốc – họ sẽ để mắt đến đấy, nhưng có trời mới biết là khi nào, còn trong khi đó, tôi có một tờ báo phải phát hành. Còn gì nữa nào?’

Dan nói,’ Tôi vẫn hy vọng. Có ai đó đặt vấn đề này ra sẽ đến giúp y.’ Một chú bé vội vã mang những trang in còn ướt mực đến đặt trên bàn.

Woolfendt dừng lại. Đằng sau vầng trán cao kia, bộ óc mẫn tiệp của ông đang tính toán những cái nên và không nên. Rồi ông nói một cách cương quyết, ‘ Được rồi. Tôi cho anh thêm hai mươi bốn giờ nữa. Nghĩa là trọn một ngày để tìm cho ra chàng hiệp sĩ cưỡi bạch mã.’

‘ Cám ơn, Chuck.’

Dan cười toe toét và quay đi. Anh nói vọng qua vai. ‘ Trên núi chắc trời lạnh lắm.’

Đầu óc thanh thản anh về nhà ăn bữa sáng muộn với vợ, Nancy rồi lái xe đưa Patty, đứa con gái sáu tuổi đến trường. Lúc anh quay xuống phố và đậu xe ở trụ sở Bộ Di trú thì đã gần mười giờ.

Anh không có lý do đặc biệt nào để đến đây cả. Anh đã phỏng vấn Edgar Kramer ngày hôm trước và không thâu lượm được gì ngoài một lời tuyên bố chính thức vô vị. Nhưng đây có vẻ là một điểm họp lý để khởi đầu.

Anh nói với cô gái đang làm thư ký cho Edgar Kramer. ‘ Toi muốn tìm một người cưỡi con bạch mã.’ Cô ta vừa nói vừa chỉ, ‘ Ông ta đi lối đó. Cứ đi thẳng tới phòng có lót nệm.’

Dan nhận xét, ‘ Tôi vẫn thường tự hỏi, làm sao các cô gái thời nay hấp dẫn và thông minh đến thế.’ Cô gái bảo, ‘ Tôi có chỉ số thông minh cao. Với lại chồng tôi đã dạy cho tôi nhiều cách trả lời.’

Dan thở dài.

Cô gái tiếp, ‘ Nếu anh thích nói chuyện khôi hài. Anh là phóng viên và anh muốn gặp ông Kramer nhưng hiện giờ ông ấy đang bận.’

‘ Tôi không nghĩ cô còn nhớ tôi.’

Cô trả lời tinh quái, ‘ Tôi không nhớ. Chỉ vì hễ thấy phóng viên là biết liền. Họ thường hơi quá trớn.’

Dan nói, ‘ Còn một người này thì chưa. Thú thật, nếu cô không phiền, tôi sẽ chờ.’

Cô mỉm cười. ‘ Nghe tiếng thì chắc không lâu đâu.’ Cô gật đầu về phía cánh cửa đóng kín ở văn phòng Edgar Kramer.

Dan nghe những âm thanh càng lúc càng lanh lảnh. Thính giác bén nhạy của anh nghe được tiếng “Duval”. Vài phút sau, Alan Maitland bước ra, mặt đỏ bừng. Dan Orliffe bắt kịp anh ở cửa chính tòa nhà. Anh nói , ‘ Xin lỗi. Không biết ta có cùng một mối quan tâm không ?’

Alan quát lên, ‘ Không có đâu.’ Anh cố kiềm lại. Cơn giận vẫn còn bừng bừng – phản ứng bây giờ mới bộc phát.

Cùng bước song song, Dan hất đầu về phía tòa nhà họ vừa đi ra. ‘ Bình tĩnh nào. Tôi không phải người trong đó đâu. Chỉ là nhà báo thôi.’

Alan Maitland dừng ngay trên vệ đường, ‘ Xin lỗi.’

Anh thở một hơi thật dài, rồi cười ngượng ngùng, ‘ Tôi đang sắp tung cú đấm thì anh lọt ngay vào tầm tay.’

Dan đã lường trước chuyện này. Anh nói, ‘ Chuyện vặt thôi mà. Bữa nay là ngày tôi lãnh đạn. Có lẽ anh là luật sư ?’

‘ Có lẽ và đang là.’

‘ Đại diện cho một ông Henri Duval ?’

‘ Phải.’

‘ Ta đến đâu đó nói chuyện chăng ?’

Alan Maitland lưỡng lự. Edgar Kramer đã buộc tội anh là khuấy động dư luận và phản ứng giận dữ của Alan đã đưa anh tới hậu quả này. Nhưng bản năng luật sư tránh né tuyên bố với báo chí khó mà bỏ được.

Dan nhỏ nhẹ nói, ‘ Nói bỏ ngoài tai, có phải tình hình không tốt lắm, phải không ?’

Alan nhăn mặt, ‘ Cũng nói bỏ ngoài tai, không thể tệ hơn được nữa.’

Orliffe nói, ‘ Trong trường hợp đó, anh – hoặc Duval – sắp thua chăng ?’

Alan nói chậm rãi, ‘ Tôi cho là không có gì.’ Anh nghĩ, đúng chứ, đâu có gì thua và có lẽ lại đạt được một cái gì đấy. Anh nói, ‘ Được rồi. Ta đi uống cà phê đi.’

Dan nói, vẻ hài lòng, ‘ Tôi có cảm giác hôm nay là một ngày tốt đẹp. Nhưng mà này, anh cột ngựa của anh ở đâu vậy ?’

Alan bối rối, ‘ Ngựa nào ? Tôi đi bộ mà.’

Dan nói, ‘ Đừng thắc mắc. Đôi khi tôi hơi khôi hài vậy thôi. Đi xe của tôi đi.’

Một giờ sau, đến ly cà phê thứ tư, Alan Maitland mới nhận xét, ‘ Anh đã hỏi về tôi nhiều rồi, nhưng Duval mới quan trọng hơn.’

Dan Orliffe lắc đầu thật mạnh, ‘ Hôm nay thì không, Hôm nay anh mới là vai chính.’ Anh liếc nhìn đồng hồ, ‘ Một câu nữa thôi, rồi tôi phải viết đây.’

‘ Cứ hỏi đi.’

Dan nói,’ Đừng đánh lừa tôi. Nhưng tại sao trong cái thành phố Vancouver này, biết bao tên tuổi lớn, biết bao tay tổ trong ngành luật, mà anh lại là người duy nhất đi giúp thằng nhỏ đó.’

Alan trả lời, ‘ Nói thật với anh, tôi cũng đang ngạc nhiên.’

 

3.

Trụ sở tờ Post là một tòa nhà gạch buồn tẻ với các văn phòng ở phía trước, nhà in ở phía sau còn ban biên tập ở trong cái tháp vươn lên ngạo nghễ và tách rời hẳn ra. Mười phút sau khi chia tay Maitland, Dan Orliffe đậu chiếc Ford ở lô dành cho nhân viên và đi vào bên trong. Anh đi thang máy lên và trong tòa soạn đang ồn ào, ngồi vào một cái bàn trống và bắt đầu viết.

Ý tưởng đến một cách dễ dàng.

Một luật sư trẻ tuổi ở Vancouve đang tức giận như David, chuẩn bị tấn công Goliath. Anh là Alan Maitland, 25 tuổi, sinh ở Vancouver, tốt nghiệp luật khoa ở Viện Đại học British Columbia.

Đối thủ Goliath của anh là Chính phủ Canada – đặc biệt là Bộ Di trú.

Các viên chức Bộ Di trú từ chối việc quan tâm đến thỉnh nguyện “ hãy cho tôi vào” của Henri Duval, “con người vô tổ quốc trẻ tuổi”, hiện đang là tù nhân trên tàu trong cảng Vancouver.

Alan Maitland hiện đang là đại diện pháp luật cho Henri Duval, kẻ lang thang không bè bạn này đã gần mất hết hy vọng sẽ được trợ giúp về mặt luật pháp, nhưng Maitland đã tình nguyện làm việc này. Ý định của anh đã được nhận với lòng biết ơn.

 Dan đánh máy chữ “còn nữa” và gào lên ‘ bản thảo đây!’ anh xé tờ giấy ra và một chú bé giữ việc chuyển bản thảo giật lấy trên tay anh và đưa lên bàn giữa.

Anh máy móc xem giờ. Đã 12g17phút, còn mười sáu phút nữa là hết giờ cho ấn bản ở lục địa. Lục địa là bản tin chính cuối cùng - ấn bản giao tận nhà qua hệ thống phát hành dài nhất. Đêm nay, điều anh viết sẽ được đọc trong hàng ngàn căn nhà… ấm cúng, dầy đủ tiện nghi và chủ nhân của chúng sống bình yên.

 Các độc giả của tờ Post sẽ nhớ lại rằng đây là tờ báo đầu tiên phát giác lời thỉnh cầu bi thảm của Henri Duval, người mà – do định mệnh trớ trêu – không có quốc tịch. Gần hai năm trước, trong cơn tuyệt vọng, anh đã đi lậu lên tàu. Từ đó, nước này nối tiếp nước kia đã từ chối không cho anh vào.

Anh quốc đã tống giam Duval khi tàu anh neo ở cảng nước này. Mỹ đã xiềng xích anh. Canada không làm cả hai điều này. Thay vì thế, có ý cho rằng anh không tồn tại.

‘Một tờ nữa chứ, Dan !’ Đó là Chuck Woolfendt, đang vội vội vàng vàng ở bàn giữa. Lại chú bé chuyển bản thảo. Chú ta vồ lấy tờ giấy ở máy đánh chữ lúc một tờ nữa đưa vào.

 Có một cơ may nào cho anh Henri Duval được nhận vào đây không ? Các thủ tục pháp lý có giúp gì được cho anh không ?

Những cái đầu già cỗi, lạnh lùng đã nói không. Chính phủ và Bộ Di trú cho rằng họ có những quyền mà thật vô ích nếu muốn thách thức.

Alan Maitland không đồng ý. Hôm nay anh có nói, ‘ Thân chủ của tôi đã bị phủ nhận một quyền cơ bản của con người và tôi có ý định chiến đấu cho điều ấy.’

Anh viết thêm ba đoạn nữa trích lời Maitland nói về Henri Duval. Giọng văn hùng hồn và đi thẳng vào vấn đề.

‘ Tới nữa đi, Dan !’ Lại ông chủ bút và bây giờ, bên cạnh Woolfendt có thêm ông chủ nhiệm. Câu chuyện lùng tìm trên núi đã làm thất vọng – người ta đã tìm thấy người đàn bà mất tích còn sống, không có âm mưu nào cả, và chồng bà ta đã được minh oan. Tính bi thảm mới làm tin tức sống động hơn là những đoạn kết có hậu.

 

Cho dù mục đích của Alan Maitland thành công hay thất bại, sẽ có một cuộc chạy đua với thời gian. Con tàu của Duval, chiếc Vastervik – một con tàu đi biển có lẽ sẽ không bao giờ đến đây nữa – sẽ ra khơi trong chưa đầy hai tuần tới. Lẽ ra nó đã đi rồi, nhưng việc sửa chữa khiến nó phải ở lại.

 Anh dặm thêm tình tiết vào, đóng nút các biến cố lại.

Viên phụ tá chủ bút đã ở sát bên, ‘ Này Dan, anh có chụp tấm hình nào của Maitland không ?’

Anh đáp, không ngẩng đầu lên, ‘ Không có thời giờ. Nhưng anh ta có chơi trong đội bóng tròn của Đại học British Columbia đấy.’

‘ Đúng rồi!’

12giò 23 phút. Còn mười phút nữa.

 Maitland nói với tờ Post. ‘ Điều đầu tiên chúng tôi đang tìm kiếm là một cuộc thẩm vấn sơ bộ chính thức về trường hợp Duval. Tôi đã yêu cầu một cuộc thẩm vấn như thế, đó đơn giản chỉ là một vần đề công lý. Nhưng người ta đã từ chối thẳng thừng và theo ý tôi, Bộ Di trú đang hành động như thể Canada là một quốc gia cảnh sát trị.’

 Kế tiếp, vài tình hình về Maitland… Rồi – để cho cân bằng – lời tái khẳng định của Bộ Di trú, qua phát biểu của Edgar Kramer ngày hôm trước… Trở lại Maitland – trích dẫn về lời cự tuyệt, rồi lại mô tả về Maitland.

Trên phím chữ, Dan Orliffe hình dung ra nét mặt chàng luật sư trẻ, nghiêm khắc đến tàn nhẫn, y như trong buổi sáng nay khi anh ta từ văn phòng Kramer bước ra.

 

Anh Alan Maitland là một người dễ gây ấn tượng. Khi nói, mắt anh sáng quắc, cằm bạnh ra, cương quyết. Bạn sẽ có cảm giác anh là loại người mà bạn muốn có bên cạnh.

Đêm nay có lẽ trên chiếc cabin cô độc khóa kín trên boong tàu, Henri Duval cũng có cảm giác tương tự.

 12 giò 29 phút. Thời gian đang chèn ép anh, thêm vài sự kiện nữa, một câu trích dẫn nữa và sẽ phải xong. Anh sẽ khai triển câu chuyện này cho ấn bản sau cùng nhưng những gì anh viết ở đây là những gì hầu hết độc giả sẽ đọc.

Ông chủ nhiệm ra lệnh cho nhóm người vây quanh ông gần bàn giữa, ‘ Được rồi. Ta vẫn đưa tin về cuộc tìm kiếm người dàn bà trên đầu, nhưng rút ngắn và chạy bài của Orliffe lên góc trên trái.’

Viên phụ tá chủ bút báo cáo. ‘Bộ phận thể thao đã cắt ra một tấm hình của Maitland. Chỉ có đầu và vai, chiếm một cột. Cũ đã ba năm nhưng còn dùng được. Tôi đã gởi xuống.’

Ông chủ nhiệm ra lệnh, ‘ Kiếm một tấm khá hơn cho ấn bản cuối cùng. Cho một tay nhiếp ảnh đến văn phòng Maitland và hãy chụp có vài cuốn sách luật ở sau.’

Viên phụ tá đáp gọn, ‘ Tôi làm rồi. Tôi nghĩ ông chắc sẽ cần có sách luật , nên tôi đã bảo thế.’ Anh ta còn trẻ, gầy và ăn mặc lôi thôi, đôi khi vẻ nhanh nhảu dễ làm mếch lòng

Ông chủ nhiệm khịt mũi, ‘ Lạy Chúa ! Đồ chó chết tham lam này làm ta đến kiệt sức. Làm sao ta ra lệnh ở đây mà lũ chim chúng mày lại đoán trước mọi việc thế ?’ Ông càu nhàu và đi về văn phòng trong khi ấn bản lục địa lên khuôn.

Vài phút sau, trước khi những tờ Post đầu tiên ra tới phố, trọng tâm bài tường thuật của Dan Orliffe đã ở trên đường dây của Thông tấn xã Canada.

 

4.

 

Alan Maitland, vào lúc xế buổi sáng, vẫn chưa hay biết gì về mức độ nổi danh của mình trong một thời gian ngắn nữa.

Chia tay Dan Orliffe, anh quay về văn phòng khiêm tốn của anh và Tom Lewis chung nhau ở ngoài rìa khu thị tứ dưới phố. Nằm trong khu những cửa hàng và một tiệm ăn Ý lúc nào cũng phảng phất mùi bánh pizza và mì spaghetti , nó gồm hai phòng nhỏ lót kiếng với một phòng đợi bé xíu có hai cái ghế và bàn cho thư ký. Ba buổi sáng mỗi tuần, một bà già đáng tuổi bà nội đến ngồi vào bàn đánh máy vài giấy tờ cần thiết để lãnh số lương còm cõi.

Tom Lewis đang ở bàn ngoài khòm thân hình cụt ngủn như khúc gỗ trên món đồ gỗ cũ họ mua rẻ mấy tháng trước. Anh ngước lên vui vẻ nói, ‘ Tao đang phác thảo ý định. Tao đã nhất định phải để đầu óc làm việc khoa học một chút.’

Alan cởi áo khoác và máng lên trong phòng riêng của anh, ‘ Phải chắc chắn gởi cho chính mày một tờ hóa đơn và hãy nhớ có nửa tên tao trong đó.’

Tom Lewis ngồi ở máy chữ, đảo người ra, ‘ Vậy sao không kiện tao để thực tập ? Mày xác định chuyện đó như thế mào ?’

‘ Chẳng gì cả .’ Một cách vắn tắt, Alan kể lại nội dung cuộc gặp ở Sở Di trú.

Tom gõ ngón tay vào cằm ngẩm nghĩ, ‘ Thằng cha Kramer này không phải là người bị liệt não. Không, nếu như y nhìn được đòn thí quân để trì hoãn.’

Alan buồn rầu nói, ‘ Tao cho rằng ý này không phải là cơ bản. Có lẽ có người đã thử qua rồi.’

Tom nói, ‘ Trong luật pháp, không có những tư tưởng cơ bản, Chỉ có sự biến đổi không cùng của mấy lão già. Này, làm gì bây giờ ? Kế hoạch hai chăng ?’

‘ Đừng quan trọng hóa nó như kế hoạch. Nó là mục tiêu xa nhất, cả hai ta đều biết.’

‘ Nhưng mày sẽ quay nó như chong chóng chứ ?’

Alan chậm rãi gật đầu, ‘ Phải. Dù chỉ là để chọc tức nhà ông Kramer hay cười và kiêu căng kia.’ Và anh nhẹ nhàng thêm, ‘ Ôi, sao mà tôi khoái đập tên khốn kiếp đó trước tòa thế !’

Tom Lewis cười ha hả, ‘ Nên lắm. Không gì làm đời hào hứng cho bằng sự thù ghét thẳng thắn.’ Anh nhăn mũi, khụt khịt, ‘ Con người hãy sống ! – Mày có đi sưu tầm một đĩa mì không ?’

Alan nói, ‘ Tao ngửi đủ rồi. Nếu mày cứ đi ăn trưa bằng món đó chỉ vì ta làm việc ở gần nó, thì mày sẽ thành con heo béo ú chỉ trong hai năm.’

Tom nói ,’ Đó là một phần trong kế hoạch của tao để rút ngắn việc ấy. Tao muốn có má phệ với cằm ba ngấn như mấy tay luật sư trong xi nê. Nó làm thân chủ động lòng hoài hoài.’

Cửa ngoài mở mà không có tiếng gõ và một điếu xì gà ló vào, theo sau là một gã mập mạp, cằm nhọn, mặc áo gió bằng da hoẳng, nón nỉ cũ mèm hất ra sau. Gã khoác máy chụp hình và bao da trên vai. Vẫn ngậm điếu xì gà, gã hỏi. ‘ Ông nào là Maitland ?’

Alan nói, ‘ Tôi đây.’

Gã bắt đầu soạn đồ nghề, ‘ Cần chớp hình. Gấp lắm. Cho bản in cuối. Maitland, đứng tựa lưng vào mấy cuốn sách luật cái coi.’

Tom bảo, ‘ Xin lỗi cho tôi hỏi, cái quỷ này là gì đây ?’

Alan nói, ‘ À, phải, tao định nói với mày đây. Tao làm vãi mấy hạt đậu. Tao nghĩ chắc mày sẽ gọi đó là kế hoạch ba.’

 

5.

 

Thuyền trưởng Jaabeck đang ngồi ăn trưa thì Alan Maitland được đưa vào cabin thuyền trưởng trên boong tàu Vastervik. Cũng như lần trước, cabin này vẫn gọn ghẽ và đủ tiện nghi, vách gỗ đào hoa tâm đánh bóng và đồ đồng sáng loáng. Chiếc bàn vuông nhỏ đã được kéo ra khỏi tường, trên tấm nỉ trắng trải bàn có bày mấy món đồ bạc và thuyền trưởng đang ăn món gì trông như rau xanh trộn. Lúc Alan vào, ông bỏ muỗng nĩa xuống và lịch sự đứng dậy. Hôm nay ông mặc đồ serge nâu nhưng vẫn đôi giày cói kiểu cũ.

Alan nói, ‘ Tôi xin lỗi ông. Tôi không biết ông đang dùng bữa trưa.’

‘ Có gì đâu, anh Maitland.’

Thuyền trưởng Jaabeck ra hiệu cho Alan ngồi vào cái ghế bành bọc da xanh lục và ngồi lại vào bàn.’ Nếu như anh chưa dùng cơm trưa… ‘

‘ Cám ơn, tôi ăn rồi.’ Alan đã từ chối đề nghị món spaghetti của Tom Lewis, và trên đường đến đây, anh

đã nuốt vội món sandwich sữa.

Viện thuyền trưởng chỉ cái đĩa, ‘ Có lẽ cũng tốt. Thanh niên như anh chắc thấy món chay này không hấp dẫn chút nào.’

Ngạc nhiên, Alan hỏi, ‘ Thuyền trưởng ăn chay à ?’

‘ Nhiều năm rồi. Có người cho là… ‘ Ông ngừng lại, ‘ Tiếng Anh là gì nhỉ ?’

‘ Người kỳ khôi.’ Alan nói xong mới hối tiếc đã nói quá vội.

Thuyền trưởng Jaabeck mỉm cười. ‘ Đôi khi người ta nói vậy đấy. Nhưng không đúng. Tôi nói tiếp, anh không phiền chứ.’

‘ Ô, không. Xin ông cứ nói tiếp.’

Thuyền trưởng thong thả nhai. Rồi dừng, ‘ Anh Maitland, hy vọng là anh có biết, đạo ăn chay này còn xưa hơn cả đạo Thiên chúa.’

Alan nói, ‘ Không, tôi không biết.’

Thuyền trưởng gật đầu, ‘ Trước nhiều thế kỷ. Người tín đồ thuần thành tin chắc rằng sự sống là thiêng liêng, tất cả mọi sinh vật đều có quyền hưởng sự sống mà không sợ gì cả.’

‘ Ông cũng tin như thế ?’

‘ Phải. Anh Maitland. Tôi tin.’ Ông có vẻ ngẩm nghĩ. ‘ Anh thấy đó, toàn bộ vấn đề rất đơn giản. Nhân loại sẽ không bao giờ sống hòa bình nếu ta không vượt qua được sự dã man tồn tại trong tất cả chúng ta. Chính sự dã man này khiến ta giết những sinh vật khác để lấy cái ăn và cũng chính bản năng dã man này đẩy chúng ta vào chuyện cãi cọ , chiến tranh và có lẽ cuối cùng là hủy diệt chính chúng ta.’

Alan nói, ‘ Đó là một lý thuyết hay.’ Anh thấy mình liên tiếp bị ông Thuyền trưởng người Nauy này làm cho kinh ngạc. Anh bắt đầu hiểu ra vì sao Henri Duval được đối xử tử tế trên chiếc Vastervik hơn bất kỳ nơi nào khác.

Thuyền trưởng chọn một trái chà là trên cái đĩa có cạnh, ‘ Một lý thuyết, như anh nói. Nhưng hỡi ơi, nó cũng có khuyết điểm như mọi lý thuyết khác.’

Alan tò mò hỏi, ‘ Khuyết điểm gì ?’

Thuyền trưởng Jaabeck nhai nốt trái chà là rồi lấy khăn ăn bằng nỉ lau tay, lau miệng thật cẩn thận, ‘

Điều hiển nhiên mà các khoa học gia ngày nay đã báo cho chúng ta biết là thực vật cũng có sự sống, có một hình thái hiểu biết và cảm giác. Anh Maitland, tôi nghe nói, đó là một bộ máy tồn tại, nhạy cảm đến nổi nghe được tiếng hét chết chóc của trái đào khi người ta hái và bóc vỏ nó. Như thế xét cho cùng thì có lẽ người ăn chay cũng chẳng đạt được gì cả, họ cũng tàn nhẫn với cây bắp cải không phương tự vệ như người ăn thịt đối với bò và heo. ‘ Thuyền trưởng mỉm cười và Alan tự hỏi cái chân anh có bị kéo nhẹ đi không.

Và thuyền trưởng sôi nổi nói tiếp, ‘ Anh Maitland, bây giờ ta làm gì đây ?’

Alan bảo, ‘ Có một vài điểm tôi muốn bàn lại. Nhưng không biết thân chủ của tôi có mặt được không ?’

‘ Được chứ.’ Thuyền trưởng Jaabeck đi ngang phòng đến chiếc điện thoại ở cạnh vách, ấn nút và nói nhanh. Quay lại , ông khô khan nói, ‘ Tôi nghe nói thân chủ của anh đang được giúp đỡ để chuồn khỏi tàu. Nhưng hắn sẽ đến.’

Vài phút sau, có tiếng gõ cửa rụt rè và Henri Duval bước vào. Anh mặc áo cổ lọ dính bết dầu mỡ và mùi nhớt bốc ra quanh người anh. Những vết dầu đen thui dính từ mặt lên tới mái tóc rối bù. Anh đứng đó , e sợ, trẻ trung, hai tay nắm lấy cái mũ len đan.

Alan nói, ‘ Chào Henri.’

Gã đi lậu cười gượng. Anh tự trọng liếc bộ đồ bẩn thỉu của mình.

Thuyền trưởng ra lệnh cho anh, ‘Đừng có căng thẳng quá, cũng đừng xấu hổ vì những dấu vết lao động lương thiện của mình.’ Rồi ông thêm, với Alan. ‘ Đôi khi tôi e là đã lợi dụng lòng tốt của Henri khi dành cho nó những công việc mà người khác không muốn làm. Nhưng nó lại tự ý làm và làm tốt.’

Nghe vậy, đối tượng của họ toét miệng cười. anh nói, ‘ Trước là tôi lau sạch tàu. Rồi đến Henri Duval. Cả hai dơ nhất.’

Alan cười.

Thuyền trưởng cười buồn, ‘ Điều người ta nói về con tàu của tôi, than ôi, là đúng sự thực. Tiền bạc chi ra ít, thủy thủ cũng ít. Nhưng với anh bạn trẻ của chúng ta , tôi không muốn cả đời nó bị sử dụng vào việc lau tàu. Anh Maitland, chắc anh có tin gì chứ ?’

Alan đáp, ‘ Không hẳn là tin. Ngoại trừ việc bị Bộ Di trú từ chối mở cuộc điều tra chính thức về trường hợp Duval.’

Thuyền trưởng Jaabeck giơ, hai tay lên sốt ruột, ‘ A . Rồi, một lần nữa, không làm được gì cả.’ Mắt Duval, vừa mới sáng lên, lại tối đi.

Alan nói, ‘ Tôi không nói hẳn là vậy. Thuyền trưởng, thật ra có một điểm tôi muốn bàn với ông, vì vậy tôi muốn thân chủ của tôi có mặt.’

‘ Hử ?’

Alan cảm thấy cả hai người kia dán mắt vào anh. Anh ngẩm nghĩ từng lời thật cẩn thận. Một câu hỏi được đặt ra và anh hy vọng nhận được một câu trả lời thật đặc biệt. Câu trả lời đúng của thuyền trưởng Jaabeck sẽ mở ra con đường cho cái mà Tom Lewis gọi là kế hoạch hai. Nhưng những câu hỏi và trả lời này phải là của chính thuyền trưởng.

Alan nói một cách cẩn thận, ‘ Khi tôi đến đây lần trước, tôi có hỏi là, với tư cách Thuyền trưởng, ông có đưa Henri Duval đến Bộ Di trú yêu cầu mở cuộc điều tra chính thức về thỉnh nguyện được lên bờ của anh ta không. Lúc đó ông trả lời là không , và lý do đưa ra – anh xem lại tờ giấy anh đã ghi chép – “ là ông quá bận và ông nghĩ việc đó cũng chẳng có kết quả gì.”’

Thuyền trưởng nói, ‘ Đúng vậy. Tôi nhớ đã nói thế.’

Khi họ đang nói, Duval đưa mắt nhìn từ người này đến người kia.

Alan nói nhẹ nhàng. ‘ Thuyền trưởng, tôi sắp yêu cầu ông một lần nữa, xin ông vui lòng đưa thân chủ của tôi, Henri Duval, từ tàu đến Bộ Di trú và ở đó ông yêu cầu mở cuộc thẩm vấn chính thức.’

Alan nín thở. Anh muốn câu trả lời y như lần trước. Nếu Thuyền trưởng nói không, dù là tình cờ buột miệng hay vì bất cứ lý do gì, thì về mặt kỹ thuật chuyên môn có nghĩa là Duval bị giữ làm tù nhân trên tàu… một con tàu ở hải phận Canada, đối tượng của luật pháp Canada. Và chỉ cần như thế thôi – dựa theo lời khai của chính Alan về vấn đề này – một thẩm phán sẽ ký trát cho hầu tòa… mệnh lệnh cho đưa tù nhân ra tòa. Đó là một kẻ hở như đường tơ sợi tóc trong luật … mục tiêu xa mà anh và Tom đã bàn đến. Nhưng việc trúng đích còn tùy ở câu trả lời ngay bây giờ đây, vì lời khai phải tuyên thệ là đúng sự thật.

Thuyền trưởng có vẻ bối rối, ‘ Nhưng chắc chắn anh mới bảo tôi là Bộ Di trú đã nói không…’

Alan không trả lời. Thay vì thế anh nhìn thuyền trưởng chăm chăm. Anh rất muốn giải thích, để nhận được câu trả lời anh cần. Nhưng làm thế là xâm phạm đạo đức của luật pháp. Đúng ra, đó là phân biệt rõ ràng, nhưng nó sờ sờ ra đấy và Alan ý thức như vậy. Anh chỉ hy vọng trí óc mẫn tiệp của thuyền trưởng…

Thuyền trưởng Jaabeck lưỡng lự, ‘ À… chắc anh có lý, phải thử lại lần nữa. Có lẽ, tôi phải cố tìm cho được thời giờ …’

Sai rồi. Đó không phải là điều anh cần. Sự hợp lý của thuyền trưởng đã niêm lại khe hở duy nhất của luật pháp … một cánh cửa vừa mới hé mở, đã lại đóng chặt. Alan bậm chặt môi, để lộ sự thất vọng trên mặt.

Vẫn là sự bối rối trong giọng Thuyền trưởng, ‘ Không phải là điều anh muốn sao ? Anh đã yêu cầu vậy mà.’

Alan nhìn thẳng vào mặt ông. Và anh nói, trang trọng một cách cố tình, ‘ Thuyền trưởng Jaabeck. Yêu cầu của tôi vẫn còn đó. Nhưng tôi phải khuyên ông rằng nếu ông không quan tâm đến nó, tôi sẽ giữ lại cái quyền, nhân danh quyền lợi thân chủ của tôi, tiếp tục bất cứ tiến trình luật pháp nào cần thiết .’

Nụ cười từ từ nở trên mặt Thuyền trưởng. Ông nói, ‘ Phải. Giờ thì tôi hiểu. Anh phải làm bằng những phương cách nào đó vì đó là con đường đi của luật.’

‘ Thế còn yêu cầu của tôi, Thuyền trưởng ?’

Thuyền trưởng Jaabeck lắc đầu. ‘ Tôi tiếc là không thể thỏa mãn được. Con tàu này có quá nhiều việc phải làm trong cảng, và tôi không có thời giờ để bận tâm đến những gã đi lậu vô tích sự.’

Cho tới lúc đó, trán Henri Duval nhăn lại suy nghĩ, dù rõ là anh hiểu rất ít người ta đang nói gì. Nhưng nghe câu cuối của Thuyền trưởng, anh bỗng ngạc nhiên và đau đớn. Alan nghĩ, giống như một đứa trẻ, bị ông bố hay bà mẹ, đột ngột lấy mất của nó cái gì mà không thèm giải thích. Một lần nữa anh rất muốn giải thích nhưng rồi quyết định là như thế là đi hơi xa. Nắm chặt tay, anh bảo Henri Duval, ‘ Tôi đang làm tất cả những gì tôi có thể làm. Tôi sẽ sớm trở lại thăm anh.’

Thuyền trưởng nghiêm trang nói với gã đi lậu, ‘ Cậu đi đi! Trở lại hầm tàu. Và hãy làm cho tốt.’

Thất vọng, mắt cụp xuống, Duval đi ra.

Thuyền trưởng nói nhẹ nhàng, ‘ Anh thấy đó, tôi cũng là một kẻ tàn nhẫn.’ Ông lấy tẩu ra và nhồi thuốc, ‘ Anh Maitland, tôi không hiểu rõ anh cần cái gì. Nhưng tôi tin tôi đã không bỏ sót điều gì cả.’

Alan cười tươi, ‘ Không đâu, thuyền trưởng. Nói thật với ông, tôi nghĩ là ông không bỏ quên điều gì cả.’

 

6.

 

Gần cuối bến tàu, một chiếc xe hơi trắng mui xếp đậu ở đó, mui mở ra. Khi Alan Maitland, từ chiếc Vastervik ra, đến gần, cổ áo bẻ cao chống cơn gió lạnh từ biển thổi vào, Sharon Devereaux mở cửa xe.

Cô nói, ‘ Chào. Tôi vừa ghé văn phòng xong, ông Lewis bảo tôi đến đây chờ.

Alan vui vẻ đáp, ‘ Lão Tom nhiều khi đánh hơi tài như ngựa.’

Sharon mỉm cười, lúm đồng tiền hiện ra. Cô không đội nón, áo khoác nâu đỏ nhạt và găng tay. Cô ra lệnh, ‘ Vào đi. Tôi đưa anh đi bất cứ đâu.’

Anh vòng qua bên kia và nhẹ nhàng chuồn thân hình dài thượt vào băng ghế hai chỗ ngồi nhỏ xíu. Ướm đến lần thứ hai anh mới ngồi lọt. Sharon tán thưởng, ‘ Không tệ lắm. Ông nội có thử một lần rồi, nhưng mà chúng tôi không lôi được cái chân thứ hai của ông vào.’

Alan nói, ‘ Tôi đã trẻ lại dẻo hơn ông nội.’

Bằng ba cử động nhanh nhẹn, Sharon quay vòng xe lại và phóng nhanh dọc bến tàu. Trong xe nhỏ và ấm cúng. Vai họ chạm nhau và anh ngửi thấy cùng một mùi hương như lần gặp trước.

Sharon nói, ‘ Về chuyện dẻo, một ngày nào khác, tôi sẽ thắc mắc sau. Đi đâu đây ?’

‘ Về lại văn phòng thôi. Tôi có vài cái hẹn phải làm cho xong.’

‘ Sao không ở đây ? Tôi biết gần hết mấy chỗ đó mà .’

Anh cười to, ‘ Ta không nên đi. Tôi biết rõ mà.’

Cô quay đầu. Môi cô đỏ , dầy, hơi hé ra chế giễu. Anh nhớ lại tính quỷ quái của cô nhỏ này.

Cô quay nhìn thẳng, ‘ Đồng ý. Vì đó là chuyện luật pháp. Xe quẹo gắt và anh ngã nghiêng vào cô. Sự va chạm thật thú vị.

Anh bảo cô, ‘ Đó là một lời khai có tuyên thệ.’

Sharon nói, ‘ Nếu anh thấy không đụng chạm đến những nguyên tắc nghẹt mũi cũ rích của anh thì anh nói tôi nghe, chuyện ra sao? Tôi muốn nói, người ở trên tàu ấy ?’

Alan nghiêm trang nói, ‘ Tôi cũng không chắc nữa. Người của Bộ Di trú đã bác bỏ chúng tôi rồi. Nhưng chúng tôi đã chờ đợi việc đó.’

‘ Rồi sao nữa ?’

‘ Có vài chuyện xảy ra hôm nay… vừa mới. Có thể có một cơ hội – còn xa vời lắm – ta có thể đưa vụ này ra ròa.’

‘ Giúp được gì không?’

‘ Tất nhiên. Có thể không.’ Câu hỏi của Sharon cũng là câu anh tự hỏi mình. Nhưng với vấn đề này, mỗi lần người ta chỉ có thể bước được một bước và hy vọng điều tốt đẹp nhất sau đó.

‘ Sao anh lại muốn đưa ra tòa nếu không giúp được gì ?’ Họ len lỏi qua dòng xe cộ, tăng tốc độ để vượt khi đèn hiệu đã chuyển sang vàng. Ở giao lộ, những tiếng thắng xe kin kít. Sharon nói, ‘ Anh thấy chiếc xe buýt đó không ? Tôi nghĩ nó sắp đụng ta rồi.’ Họ quẹo gắt, trái rồi phải, vòng qua một xe tải chở sữa đã dừng, lọt qua vừa sát. ‘ Anh đang nói đến chuyện sắp đưa ra tòa.’

Alan nói, nuốt nước miếng, ‘ Có nhiều cách khác và nhiều loại tòa khác. Ta đi chậm hơn một chút được không ?’

Sharon nghe lời, từ bốn mưoi xuống ba lăm (dặm/giờ). ‘ Kể tôi nghe về tòa án đi.’

Alan nói, ‘Cô không bao giờ biết trước được cái gì sắp đưa ra làm bằng chứng đâu. Đôi khi có những điều cô không bao giờ nghe từ phía ngược lại. Các điểm trong luật pháp cũng vậy thôi. Và trong vụ này, có một lý do khác nữa.’

Sharon thúc giục, ‘ Tiếp đi. Hay quá.’ Alan để ý thấy tốc độ lại bò lên bốn mươi.

Anh giải thích, ‘ À, dù ta làm gì đi nữa, ta cũng chẳng mất gì. Ta càng phá rối lâu hơn thì càng có cơ may Chính phủ sẽ thay đổi ý kiến, tạo cho Henri một dịp để làm người nhập cư.

Sharon tư lự, ‘ Tôi cũng không biết ông nội có thích thế không. Ông hy vọng sẽ biến nó thành một ngón đòn chính trị lớn mà nếu chính phủ chịu thua thì chẳng còn gì để cãi nhau nữa.’

Alan nói, ‘ Thú thật, tôi không cần biết ông nội muốn gì. Tôi quan tâm hơn đến chuyện tôi làm gì được cho Henri.’ Yên lặng. Rồi Sharon nói, ‘ Anh gọi hắn bằng tên – đến hai lần. Anh thích hắn ta chăng ?’

Alan nói , ‘ Phải. Tôi thích.’ Anh thấy mình nói một cách xác tín. ‘ Anh ta là một chú nhỏ dễ thương, đã trải qua một đời gian khổ. Tôi không nghĩ anh ta sẽ là chủ tịch của một cái gì, hay giàu lên tới một mức nào đó,mnhưng tôi muốn anh ta có một thay đổi đúng lúc. Nếu thế, đây sẽ là cơ hội đầu tiên cho anh ta.’

Sharon liếc nhìn nghiêng Alan rồi quay nhìn thẳng. Lát sau cô hỏi, ‘ Anh có biết gì không ?’

‘ Không. Kể tôi nghe.’

Cô nói, ‘ Nếu tôi có gặp rắc rối gì, thì chính anh, anh Alan, là người tôi muốn được anh giúp.’

Anh nói, ‘ Ta đang gặp rắc rối đây. Cô để tôi lái nhé ?’

Bánh xe rít lên. Chiếc MG lướt đi rồi ngừng lại. Sharon ngây thơ hỏi, ‘ ‘ Sao ? Ta đến đây rồi.’

Mùi bánh pizza và nước sốt spaghetti không lẫn vào đâu được.

Trong văn phòng, Tom Lewis đang đọc ấn bản lục địa của tờ Post. Anh bỏ tờ báo xuống khi họ bước vào. Anh bảo, ‘ Luật sư đoàn sẽ trục xuất mày, chắc vậy rồi, vì cái vụ lột áo thầy tu trước dư luận ở công viên Stanley. Mày biết luật lệ quảng cáo chứ ?’

Alan nói, ‘ Để tao xem.’ Anh cầm tờ báo. ‘ Tao chỉ nói những gì tao nghĩ. Lúc đó tao có hơi bực mình.’ Tom nói, ‘ Chuyện đó hết sức là rõ ràng.’

Alan trải rộng trang đầu ra, Sharon đứng bên cạnh. ‘ Trời ơi ! Tôi không nghĩ lại như thế này.’

Tom thông báo, ‘ Được loan cả trên đài truyền thanh nữa.’

‘ Nhưng tao tưởng phần lớn là nói về Duval…’

Tom nói, ‘ Phải nói thật, tao ghen đến tái xanh cả người. Dù sao thì, không cần cố gắng chút nào, mày đã nắm ngay được cái vụ tuyệt vời này, thành một người hùng trong dư luận và bây giờ, dường như …’ Alan ngắt lời, ‘ Ô, tao quên mất. Đây là cô Sharon Devereaux.’

Tom nói , ‘ Tao biết . Tao vừa mới biết cô ấy.’

Mắt Sharon sáng lên hài hước, ‘ Ông Lewis, xét cho cùng, ông cũng được nhắc tới trong bài báo mà.

Người ta viết rõ ràng, Lewis và Maitland.’

‘ Cô nói vậy, tôi biết ơn cô vô cùng.’ Tom khoác áo vào, ‘ À, nhân tiện, tao đi gặp một thân chủ mới toanh đây. Ông ta có cửa hàng cá, tao xem lại giao kèo giùm cho ông. Tiếc là ông không có ai trông nom cửa hàng, nên tao phải đến đó. Mày có thích lát cá thu ăn tối không ?’

Alan lắc đầu.’ Tối nay thì không. Cám ơn. Tao có chương trình đưa Sharon đi ăn ngoài.’

Tom nói, ‘ Phải rồi. Tao nghĩ mày sẽ làm vậy.’

Còn lại hai người, Alan ngẩm nghĩ, ‘ Tôi phải soạn lời khai mới được. Phải có sẵn để mai tôi ra mắt ông thẩm phán.’

Sharon hỏi, ‘ Tôi giúp được gì không ?’ Cô mỉm cười, lúm đồng tiền hiện ra và biến đi. ‘ Tôi cũng biết đánh máy.’

Alan nói, ‘ Lại đây.’ Anh nắm tay dắt cô vào văn phòng lót kính của anh.

 

 

 

 


Đăng nhập để gửi phản hồi cho bài viết