ĐỘI TUẦN CẢNH THỜI GIAN

ĐỘI TUẦN CẢNH THỜI GIAN

Nguyên tác: The Guadians of Time

Truyện khoa học giả tưởng của Poul Anderson

Trích trong tập truyện ngắn Time Patrol

 

1

 

CẦN TUYỂN: nam, 21-40 tuổi, độc thân, biết kỹ thuật, khoẻ mạnh, lương cao, có cơ hội đi ngoại quốc, liên hệ Cty Nghiên cứu Công nghệ, toà nhà 305E, tầng 45, số 9-12 và 2-6.

Ông Gordon nói, “Anh hiểu chứ, công việc hơi có chút bất thường và bí mật nữa. Anh có thể giữ bí mật không ?”

Manse Everard nói, “Bình thường mà. Dĩ nhiên là còn tùy bí mật gì nữa chứ”.

Ông Gordon cười. Nụ cười kỳ lạ, khoé môi khép không giống như Everard thấy trước đây. Ông ta nói tiếng Anh phổ thông dễ dàng, mặc đồ công sở xuề xòa, nhưng có vẻ người nước ngoài, gò má sẫm không râu và rất khó hiểu là đôi mắt Mông cổ trên cái mũi mỏng của dân Caucase. Nó đặt không đúng chỗ.

Ông nói, “Nếu anh tưởng chúng tôi là gián điệp, thì không phải đâu”.

Everard cười, “Rất tiếc. Xin đừng nghĩ tôi là thằng điên như mấy người trong xứ này. Dù sao thì tôi chẳng bao giờ chỏ mũi vào ba cái thứ dữ liệu mật. Nhưng ông quảng cáo có công tác hải ngoại và sự thể là _ ông hiểu cho, tôi muốn giữ hộ chiếu”.

Anh là người cao lớn, vai rộng, mặt phong trần, tóc cắt ngắn kiểu thủy thủ. Hồ sơ của anh trải trước mặt: đã giải ngũ khỏi quân đội, công tác nhiều nơi với tư cách kỹ sư công nghệ. Ông Gordon hầu như không liếc nhìn anh.

Văn phòng trông bình thường, một bàn, hai ghế, một tủ hồ sơ, cửa đi ra phía sau, cửa sổ mở nhìn xuống xe cộ ồn ào của Nữu Ước sáu tầng bên dưới.

Người ngồi sau bàn nói, “Tinh thần độc lập. Tôi thích thế. Nhiều người đến đây, quỵ luỵ, sẵn sàng chịu đá đít. Tất nhiên, với hồ sơ của anh, anh sẽ không thất vọng đâu. Anh có thể nhận việc… ừ… à, thuật ngữ hiện nay gọi là sự điều chỉnh tùy nghi.”

Everard nói, “Tôi muốn vậy. Như ông đã thấy, tôi từng làm việc ở nước ngoài, và vẫn thích đi du lịch. Nhưng nói thật, tôi chưa thấy được lợi ích của các ông là gì”.

Ông Gordon nói, “Chúng tôi làm rất nhiều việc. Xem nào, anh từng chiến đấu. Pháp, Đức.” Everard chớp mắt. Hồ sơ của anh gồm nhiều huy chương nhưng anh thề rằng ông ta chẳng có thì giờ đọc. “Ừm.. anh vui lòng nắm chặt mấy cái núm trên tay ghế được không ? Cám ơn. Anh phản ứng ra sao khi gặp nguy hiểm về thể chất ?”

Everard sửng cồ, “Nhìn này…”

Ông Gordon dán mắt lên một dụng cụ trên bàn. Nó chỉ là cái hộp có kim và hai mặt số. “Không sao. Anh nghĩ sao về chủ nghĩa quốc tế ?”

“Nghĩa là, sao nhỉ ?“

“Khủng bố. Phát xít. Phụ nữ. Tham vọng cá nhân anh ?... Tất tần tật. Anh không cần trả lời.”

“Thế này là cái quái gì ?” Everard quát.

Ông Gordon ngã người ra sau, bẻ bão tay, “Trắc nghiệm tâm lý chút xíu thôi mà. Quên đi. Tôi không quan tâm đến ý kiến của anh trừ phi chúng phản ảnh những cảm xúc cơ bản. Rất hứa hẹn. Đây, là cơ cấu. Chúng tôi đang làm những việc như tôi đã nói, tối mật. Chúng tôi…à… định gây bất ngờ cho đối thủ. Ông cười thoải mái, “Anh cứ việc đi báo cho FBI nếu muốn. Người ta đã điều tra chúng tôi và chúng tôi đã có giấy chứng nhận hoàn toàn trong sạch. Anh sẽ thấy chúng tôi đang thực thi công tác tài chánh và kỹ thuật trên khắp thế giới. Nhưng vẫn còn vài khía cạnh khác, cho nên chúng tôi cần người. Tôi sẽ trả anh 100 đôla để ra phòng phía sau chịu một số trắc nghiệm. Kéo dài chừng ba giờ. Nếu anh không qua được, coi như chấm dứt. Nếu qua được, chúng tôi sẽ ký giấy tờ với anh, cho anh biết các dữ liệu và bắt đầu huấn luyện anh. Chấp nhận không ?

Ererard lưỡng lự. Có cảm giác như bị cuốn đi. Có gì đó khác hơn là một công việc văn phòng và một người lạ dễ chịu. Song…

Quyết định đi. “Tôi sẽ ký nếu ông cho biết chuyện này là thế nào”.

Ông Gordon nhún vai, “Tuỳ ý anh thôi. Anh biết đấy, các trắc nghiệm để biết anh qua được hay không. Chúng tôi sử dụng một số kỹ thuật rất tiên tiến.”

Ít nhất thì đó cũng là sự thật. Everard biết lõm bõm về tâm lý học hiện đại: điện não đồ, trắc nghiệm kết hợp, hồ sơ Minnesota. Anh không nhận ra mấy cỗ máy chạy ri rì, chớp nháy quanh mình. Những câu hỏi mà tay phụ tá_ một gã đầu nhẵn thín, da trắng bạch, không rõ tuổi tác, giọng nằng nặng, không có biểu hiện gì trên mặt_ chĩa vào anh hình như chẳng có nghĩa gì cả. Còn cái mũ kim loại y ta chụp trên đầu. Mấy sợi dây loằng ngoằng ấy dẫn đi đâu ?

Anh lén nhìn mặt số, nhưng chữ và số không giống những gì anh biết. Không phải tiếng Anh, Pháp, Nga, Hy Lạp, Trung hoa, bất cứ gì thuộc về năm 1954 Công Nguyên. Thế rồi, anh dần nhận ra sự thật.

Một cảm giác tự biết mình dâng lên khi các trắc nghiệm đang diễn ra. Manson Emmert Everard, 30 tuổi, từng là Trung úy Công binh Mỹ, có kinh nghiệm thiết kế chế tạo ở Mỹ, Thụy Điển, Ả Rập, còn độc thân, dù đôi khi vẫn nghĩ đến những người bạn ̣đã lập gia đình. Hiện không có bạn gái, không có mối ràng buộc thân thiết nào; ham đọc sách, chơi bài poker lão luyện, mê chèo thuyền, cưỡi ngựa, bắn súng; mê cắm trại, câu cá khi đi nghỉ. Anh biết nhiều nhưng tất nhiên, chỉ biết sơ sài thôi. Thật kỳ cục, nhưng cảm giác bản thân như một cơ chế tích hợp, mỗi mặt như một mảnh ghép của toàn thể.

Anh bước ra, mệt nhoài, người ướt đẫm. Ông Gordon dúi cho anh điếu thuốc, dụi mắt trước xấp giấy đầy những mã tự tay phụ tá đưa cho ông. Thỉnh thoảng ông lại lầm bầm, “… Zeth-20 vỏ não… đánh giá ở đây không khác biệt… có phản ứng tâm lý với kháng độc tố… yếu ở khâu tổng hợp trung tâm. Ông đọc lướt bằng chất giọng nhấn nhá, ngân nga, các nguyên âm không giống gì với tiếng Anh mà anh đã nghe thiên hạ nói sai bét trên mọi nẻo đường.

Đã nửa giờ rồi, anh ngước lên nhìn. Everard  thấy bứt rứt, hơi tức giận nhưng sự quan tâm khiến anh vẫn ngồi yên. Ông Gordon cười nhăn nhở, hài lòng phô hàm răng trắng như không thực. “A. Cuối cùng cũng xong. Anh biết không, tôi đã tống đi 24 ứng viên rồi đấy. Nhưng anh thì được. Nhất định.”

Everard chồm tới trước, thấy mạch đang đập nhanh ,“Làm cái gì?”

“Tuần cảnh. Đại khái như cảnh sát viên vậy mà”.

“Hử ? Ở đâu ?”

“Khắp mọi nơi. Và bất cứ khi nào. Ráng lên đi, anh bạn. Đây sẽ là cú sốc”.

“Anh sẽ thấy. Công ty chúng tôi, dù rất hợp pháp, vẫn chỉ là bình phong và là nguồn ngân quỹ. Công việc thực sự của chúng tôi là tuần tra thời gian.”

 

2

Học viện nằm ở miền tây nước Mỹ. Vẫn còn trong Kỷ Oligocene (Kỷ Tiệm Tân, 33_23 triệu năm trước), thời tiết ấm, rừng và đồng cỏ khắp nơi, tổ tiên loài chuột chạy trốn loài có vú khổng lồ. Được xây dựng từ ngàn năm trước, sẽ được duy trì trong nửa triệu năm_ để huấn luyện đủ số Đội Tuần Cảnh cần thiết_ rồi sẽ bị huỷ đi không còn chút dấu vết nào. Khi kỳ băng hà đến, con người sẽ xuất hiện, và vào năm 19352 CN (năm 7841 chiến thắng Morennium), những con người này sẽ tìm được đường đi xuyên qua thời gian và sẽ thiết lập Học viện.

Đó là một phức hợp những toà nhà dài, thấp, đường cong mềm mại, màu sắc thay đổi trải dài trên thảm cỏ giữa những cây cổ thụ lâu đời khổng lồ. Xa xa là đồi và rừng chạy mút đến dòng sông nâu vĩ đại và ban đêm thỉnh thoảng còn nghe tiếng gầm của tê giác cổ đại và hổ răng kiếm.

Everard bước ra ngoài phi thuyền con thoi thời gian, cái hộp kim loại không hình thù to lớn_ cổ họng khô khốc. Cảm giác như ngày đầu tiên trong quân đội, 12 năm trước, hay 15 đến 20 triệu năm trong tương lai, nếu bạn thích gọi thế_ cô đơn, vô vọng, chỉ muốn có cách nào đường hoàng quay về nhà. Một chút an ủi là nhìn thấy vài tàu con thoi khác, tuôn ra chừng hơn năm chục cả nam lẫn nữ trẻ trung. Những người mới tuyển xích lại gần nhau, thành một đám hỗn độn. Lúc đầu họ không nói năng gì, chỉ đứng nhìn nhau. Everard nhận ra cổ áo Hoover và mũ quả dưa, kiểu tóc và y phục năm 1954 và sau đó. Cô ta từ đâu đến, kiểu quần cullottes gọn gàng, son môi xanh lá, tóc vàng dợn sóng lập dị ? Không… khi nào ?

Chàng thanh niên chừng 25 tuổi đột nhiên ở cạnh anh, rõ là người Anh, y phục bằng vải tweed sờn chỉ, mặt mỏng và dài. Hình như anh ta muốn dấu vẻ tàn nhẫn dưới bề ngoài kiểu cách. Everard nói, “Chào. Làm quen được chăng?” Anh cho biết tên và gốc gác mình.

Anh chàng kia dè dặt nói, “Charles Whitcomb, Luân đôn, 1947. Tôi vừa giải ngũ, Không lực Hoàng gia Anh, đây có vẻ là dịp may. Tôi đang thắc mắc đây”.

“Có thể lắm”, Everard nói, cũng đang nghĩ đến lương. Khởi điểm là 15.000 mỗi năm. Sau vài năm thì sao ? Và lâu dài hẳn rất có ý nghĩa.

Một người đàn ông bước lại phía họ. Trẻ, mảnh mai, đồng phục xám bó sát người, áo choàng sáng lấp lánh, như ngôi sao đính trên áo. Mặt tươi cười, nói năng thân mật, giọng trung tính, “Chào, các đằng ấy. Chào mừng đến Học viện. Chắc các vị đều biết tiếng Anh ?” Everard để ý thấy có người mặc quân phục Đức cũ kỹ, người Ấn độ và nhiều người các xứ khác.

Gã ngồi thoải mái, chống tay lên hông, “chúng tôi dùng tiếng Anh, đến khi nào các anh học được tiếng Temporal (Trần gian). Tôi tên Dard Kelm, sinh năm, xem nào, năm 9573 Thiên chúa, nhưng tôi đã làm điều đặc biệt trong thời kỳ các vị. Thời kỳ này, kéo dài từ 1850 đến 2000, tất cả các vị đều ở đâu đó trong khoảng thời gian này. Tôi sẽ là chỗ dựa cho các vị than khóc, nếu các vị có gì sai lầm.”

“Chỗ này chạy dọc theo nhiều tuyến khác nhau từ vị trí các vị cho là. Chúng tôi không đuổi học, vì không cần đến kỷ luật chặt chẽ của lớp học hay quân đội. Mỗi người sẽ có chỉ dẫn riêng và chung. Chúng tôi sẽ không trừng phạt việc học tập kém, vì những khảo nghiệm ban đầu bảo đảm không có chuyện này và sẽ tạo cơ hội thất bại trong những việc lặt vặt khác. Từng người sẽ đạt độ chín cao và tuỳ văn hóa của mình nữa. Tuy nhiên năng lực thay đổi nghĩa là nếu chúng ta phát triển cá nhân tới mức cao nhất thì sẽ có hướng dẫn cá nhân riêng.”

“Ở đây không có phép tắc gì hết trừ phép lịch sự thông thường. Các vị đều có cơ hội để sáng tạo và nghiên cứu. Chúng tôi không hy vọng các vị cho nhiều hơn nhận. Nói thêm là săn bắn, câu cá đều được ngay cả trong khu vực lân cận, nếu các vị có bay vài trăm cây số thì sẽ thấy lắm con kỳ quái.”

“Giờ, nếu không hỏi gì nữa, mời theo tôi, tôi sẽ giúp các vị ổn định”.

Dard Kelm chỉ cách dùng vài thứ trong căn phòng tượng trưng. Đây là thứ Everard chờ đợi, nghĩa là, năm 2000 CN: bàn ghế bình thường nhưng đã được sửa hoàn hảo, tủ sạch sẽ, thư viện có màn che, đầy hình ảnh và âm thanh cho việc giải trí. Song, không quá tối tân. Mỗi học viên đều có phòng riêng trong tòa ký túc xá; bữa ăn dọn trong nhà ăn trung tâm, nhưng dọn cho từng nhóm riêng. Everard thấy căng thẳng dịu đi.

Có bữa tiệc chào mừng. Các bài học quen thuộc nhưng những cỗ máy câm lặng cuốn thuốc lá phục vụ cho họ thì không. Có rượu, bia, thuốc lá thì dư. Có lẽ có gì đó trộn vào thực phẩm vì Everard thấy phởn phơ như những người khác. Anh kết thúc bằng cách đập cây nến vào đàn dương cầm trong khi nửa tá người khác thì hát rống lên làm không khí thêm cuồng loạn.

Chỉ Charles Whitcomb vẫn bình thản. Rầu rĩ ngồi trong góc nhấp rượu, Dard Kelm khôn khéo không tìm cách tham gia cuộc vui.

Everard nhất định là anh sắp thích nơi này. Nhưng còn công việc, tổ chức và mục đích thì vẫn mơ hồ.

Kelm nói, trong phòng diễn thuyết, “Du hành thời gian được khám phá vào thời kỳ khi Dị giáo Chorite đang tan rã. Các vị sẽ nghiên cứu chi tiết sau, còn giờ hãy nhớ lời tôi rằng đó là thời kỳ hỗn loạn, khi sự cạnh tranh thương mại và di truyền là vấn đề của răng và vuốt giữa những tổ hợp khổng lồ; cái gì cũng trôi đi mất, các chính phủ là con tốt trong trò chơi của các thiên hà. Hiệu quả thời gian là sản phẩm phụ của một nghiên cứu về phương cách di chuyển tức thời mà một số trong các vị sẽ nhận ra nó đòi hỏi những hàm số không liên tục vô hạn trong các định nghĩa toán học… chẳng hạn du hành vào quá khứ. Tôi không đi vào sâu vào lý thuyết_ các vị sẽ tìm hiểu trong các lớp học vật lý_ chỉ cần nhấn mạnh rằng nó liên quan đến tính vô hạn_ những tương quan có giá trị về tính liên tục của không gian 4 N, trong đó N là số tổng của các phân tử trong vũ trụ.

Tất nhiên, nhóm đã khám phá ra nó, nhóm 9, đã biết đến các khả năng. Không chỉ thương mại _ mậu dịch, khai khoáng, mọi công việc mà các vị có thể hình dung_ nhưng có cơ may tung ra được cú đấm chí mạng vào đối thủ. Các vị thấy đó, thời gian thì biến đổi; nên quá khứ có thể thay đổi.

“Thắc mắc ! “, đó là cô gái năm 1972, Elizabeth Gray, nhà vật lý trẻ đang lên vào thời kỳ của cô.

Kelm nhã nhặn nói, “Sao kia ?”

“Tôi cho là ông đang mô tả một tình trạng bất khả về luận lý. Tôi thừa  nhận khả năng du hành thời gian, rằng chúng ta đang ở đây, nhưng một biến cố không thể vừa xảy ra vừa không xảy ra. Đó là mâu thuẫn nội tại.”

Kelm nói, “Chỉ khi cô nhấn mạnh đến lý luận có giá trị vừa không Aleph vừa phụ thuộc Aleph. Vấn đề là thế này: giả sử tôi đi ngược về thời gian và ngăn không cho cha cô gặp mẹ cô. Cô sẽ không bao giờ được sinh ra. Thành phần đấy của vũ trụ sẽ đọc theo cách khác; nó hẳn sẽ luôn luôn khác đi; cho dù tôi vẫn duy trì trí nhớ về tình trạng sự việc ‘nguyên bản’.”

Elizabeth hỏi, “À, thế thì điều tương tự xảy ra cho chính ông thì sao đây ? Ông sẽ ngừng tồn tại chăng ?”

“Không. Vì tôi thuộc về phần lịch sử có trước khi tôi can thiệp vào. Ta áp dụng nó cho cô. Nếu đi lùi lại, cho là, năm 1946, và tác động để ngăn hôn nhân của cha mẹ cô, năm 1947, cô vẫn tồn tại vào năm đó, cô không đi ra ngoài sự tồn tại chỉ vì cô gây ảnh hưởng đến các biến cố. Điều tương tự vẫn áp dụng ngay cả khi cô chỉ hiện diện vào năm 1946 có một vi phân giây trước khi bắn chết người đàn ông sẽ là cha cô.”

Cô phản đối, “nhưng tôi đã tồn tại mà không, không có cả nguồn gốc. Tôi có đời sống, có ký ức… có mọi thứ… dù không có gì tạo ra chúng”.

Kelm nhún vai, “Vậy thì sao ? Cô khẳng định luật lệ thông thường, hay nói chính xác là cuộc đối thoại về luật năng lượng, chỉ liên quan đến các hàm số liên tục. Thực tế là, tính không liên tục là hoàn toàn có thể”.

Anh ta cười và tì người vào bục giảng, “Tất nhiên vẫn có sự bất khả. Chẳng hạn, cô không thể là mẹ của chính cô vì nguồn gốc gen. Nếu cô lùi lại và kết hôn với cha cô trước, thì các đứa con sẽ khác, không đứa nào là cô, vì mỗi đứa chỉ có nữa nhiễm sắc thể của cô thôi.”

Anh đằng hắng, “ta đi chệch vấn đề rồi. Cô sẽ học chi tiết trong các lớp khác. Tôi chỉ cho cô điều cơ bản thôi. Nói tiếp: nhóm 9 nhìn thấy khả năng đi lùi lại thời gian, ngăn không cho kẻ thù của họ khởi sự, ngăn cả không cho sinh ra nữa. Nhưng rồi  loài Danellian xuất hiện”.

Lần đầu tiên, thái độ hài hước cố hữu rơi mất, gã đứng trơ như người vô thức. Gã nói khẽ, “loài Danellian là phần của tương lai_ tương lai chúng ta_ hơn một triệu năm trước mắt tôi. Con người dính vào điều gì đó… không mô tả được. Các vị có thể sẽ không gặp một người Danellian. Nếu có, sẽ là… còn hơn cú sốc nữa. Họ không ác_ cũng không hiền, họ khác xa những gì ta từng biết, khác xa loài sâu bọ sẽ là tổ tiên chúng ta. Gặp mặt đối mặt với loài này không hay ho gì.”

“Chúng chỉ quan tâm bảo vệ sự tồn tại của chúng. Du hành thời gian là xưa rồi khi chúng trỗi dậy. Có vô số cơ hội cho kẻ ngốc, kẻ tham, kẻ khùng quay ngược và lộn thời gian từ trong ra ngoài. Chúng không muốn cấm du hành_ nó là thành phần của phức hợp dẫn đến chúng_ nhưng chúng phải sửa đổi. Nhóm 9 phải ngăn ngừa chúng thực thi kế hoạch. Và Đội Tuần cảnh được thành lập để giám sát các tuyến thời gian.”

“Việc của các vị chỉ diễn ra trong kỷ nguyên của các vị, trừ phi các vị đạt được trạng thái không bị kiềm chế. Các vị sẽ sống, nói chung, cuộc sống bình thường, gia đình và bạn bè như bình thường; phần bí mật trong cuộc sống sẽ được bù đắp bằng lương bỗng hậu, sự bảo vệ, những kỳ nghỉ đặc biệt ở những nơi thú vị, xứng đáng bõ công. Nhưng các vị phải luôn sẵn sàng được gọi. Đôi khi các vị phải giúp đỡ những người du hành thời gian bị vướng vào rắc rối, cách này hay cách khác. Đôi khi các vị thực hiện nhiệm vụ dù e sợ những kẻ xâm lược chính trị, quân sự hay kinh tế. Đôi khi Đội Tuần cảnh phải chấp nhận thiệt hại và cứ làm việc thay vì trung hoà những ảnh hưởng trong các kỷ nguyên sau có thể đẩy lịch sử lùi lại theo con đường ước muốn.

“Tôi chúc các vị may mắn”.

Phần đầu bài giảng mang tính vật lý và tâm lý. Everard chẳng bao giờ nhận ra làm sao mà cuộc đời riêng của anh lại làm anh tê liệt, thể xác và tâm hồn. Anh chỉ là nửa con người mà anh có thể sẽ là. Nó đến thật khó khăn, nhưng cuối cùng là niềm vui khi cảm nhận được sức mạnh bắp thịt được kiểm soát hoàn toàn, cảm giác sâu xa khi được tuân lệnh, ý nghĩ đến chính xác và nhanh nhẹn.

Đâu đó dọc con đường anh bị kiểm soát có điều kiện, không để lộ gì về Đội Tuần cảnh, ngay cả hé ra sự hiện diện của nó với những người không có thẩm quyền. Chỉ đơn giản là anh không thể làm thế, dưới bất kỳ ảnh hưởng nào, như không thể nhảy lên mặt trăng. Anh cũng ý thức được mặt trái và mặt phải của những cá thể công cộng ở thế kỷ 20.

Tiếng Trần gian (Temporal), ngôn ngữ nhân tạo để Đội Tuần cảnh ở mọi thời kỳ có thể liên lạc với nhau mà không cho người lạ hiểu là một phép lạ về cách diễn cảm được sáng tạo rất hợp lý.

Anh nghĩ là mình biết đôi chút về chiến đấu, nhưng anh phải học mưu mẹo và khí giới trong 50.000 năm, từ kiếm thời Đồ Đồng đến luồng hơi tuần hoàn có thể làm nổ tung cả một lục địa. Trở về thời kỳ của mình, anh sẽ được giao một kho vũ khí hạn chế, nhưng cũng có thể được triệu tập vào các thời kỳ khác và chuyện đi sai niên đại thì không được phép.

Phải học về lịch sử, khoa học, nghệ thuật, triết học, những chi tiết tế nhị về tiếng địa phương và cách ứng xử. Sự việc này chỉ kéo dài trong thời kỳ 1850-1975; nếu có dịp đi đâu đó anh phải chọn một chỉ thị đặc biệt từ cỗ máy kiểm tra thôi miên. Những loại máy móc đó làm khoá huấn luyện của anh chỉ kéo dài ba tháng.

Anh học về tổ chức của Đội Tuần tra. Trên hết là bí ẩn về nền văn minh Danellian, nhưng có rất ít liên hệ trực tiếp với nó. Đôi Tuần cảnh thành lập theo kiểu bán quân sự, có cấp bậc dù không theo hình thức đặc biệt nào. Lịch sử được phân chia theo hoàn cảnh, văn phòng trung tâm nằm ở thành phố lớn, theo từng thời kỳ 20 năm chọn trước, nguỵ trang thành hoạt động giả dạng như thương mại chẳng hạn với nhiều chi nhánh. Trong thời của anh, có 3 không gian chính: thế giới phương Tây, trung tâm ở Luân đôn, Nga ở Moscow và châu Á ở Bắc kinh; mỗi nơi trong thời kỳ dễ chịu 1890-1910, khi mà sự che đậy ít khó khăn hơn các thập kỷ sau đó, như văn phòng Gordon chẳng hạn. Một văn phòng đại diện sống giản đơn trong thời của mình, thường là với công việc thực sự. Giao tiếp giữa các năm là bằng tàu con thoi mang robot nhỏ hay người đưa tin, với các khớp chuyển hướng tự động để thư tín không bị dồn đống vào cùng thời điểm.

Toàn tổ chức lớn đến nỗi anh không thể nào hiểu hết các sự kiện. Anh đã thâm nhập vào vài thứ mới mẻ và hồi hộp, bằng tất cả lớp ý thức mà vẫn chưa ăn thua.

Anh thấy các vị huấn luyện của anh rất thân mật, thích ba hoa. Vị cựu chiến binh ưa léo nhéo dạy anh cách điều khiển tàu không gian từng chiến đấu trong chiến tranh sao Hỏa năm 3890, ông ta nói, “Các cậu nắm bắt khá nhanh. Dạy cho bọn thời tiền công nghiệp, thật như địa ngục. Chúng tôi phải bỏ cuộc dù chỉ là dạy vài nguyên tắc sơ đẳng. Có một tên thời La mã_ thời Ceasar_ nhìn cũng sáng sủa, vậy mà chả hiểu được cái máy khác con ngựa chỗ nào. Còn với bọn Babylone, bức tranh thế giới không có du hành thời gian. Chúng tôi phải dạy chúng nguyên tắc về chiến tranh giữa các vị thần”.

Whitcomb hỏi, “Vậy ông sẽ dạy chúng tôi nguyên tắc gì ?”

Người không gian nheo mắt nhìn anh, rồi nói, “Sự thực, là nhiều ở mức các anh tiếp thu được”.

“Ông được tiếp nhận như thế nào?”

“À… tôi bị bắn văng khỏi Sao Mộc. Tôi chẳng còn lại gì. Họ nhặt tôi lên, đắp điếm cho tôi hình hài mới, vì không người dân nào chúng tôi còn sống, và tôi bị coi là đã chết, hầu như chẳng có chỗ nào để quay về quê hương. Không còn người sống nào dưới Các Đội Hướng dẫn. Nên tôi kiếm chỗ ở đây. Đồng đội tốt, cuộc sống dễ dàng, nhiều kỳ phép trong nhiều kỷ nguyên.” Và ông cười khoái chí, “chờ đến khi nào các anh rơi vào thời suy đồi của Chế độ Mẫu hệ thứ ba ! Các anh không biết là vui thế nào đâu”.

Everard không nói gì. Anh bị quang cảnh Trái đất lôi cuốn, khối tròn khổng lồ nổi bật giữa các vì sao.

Anh đánh bạn với các bạn đồng học. Họ tương đắc_ tất nhiên, vì cùng týp được chọn làm Tuần cảnh, dạn dĩ và thông minh. Có vài cặp lãng mạn. Không có kiểu chân dung của Jenny , hôn nhân là rất có thể, vài đôi chọn ra một số năm để xây dựng ngôi nhà yêu dấu. Bản thân anh cũng thích vài cô, nhưng anh giữ được đầu óc.

Lạ thay, chính chàng Whitcomb lặng lẽ và u sầu, lại là người phá vỡ tình bạn thân thiết nhất. Chàng Ănglê này có vẻ gì đáng thương; anh ta có học vấn, là bạn tốt, song vẫn có vẻ lạc lõng.

Một hôm, họ ra ngoài cưỡi ngựa, loài phi như bay trước khi sinh ra đám con cháu khổng lồ. Everard mang súng , hy vọng bỏ túi được con voi có ngà to như cái xẻng anh đã nhìn thấy. Cả hai mặc đồng phục Học viện, màu xám nhạt trông mát và mượt dưới ánh mặt trời nóng như đổ lửa.

Anh Mỹ nhấn mạnh, “không biết ta có được đi săn không? Giả sử ta bắn được con hổ răng kiếm_ ở Châu Á, ví dụ vậy_ mà ban đầu bị nguyền rủa vì ăn thịt loài sâu bọ tiền thân của con người. Vẫn sẽ không thay đổi được tương lai sao?”

Whitcomb, người tỏ ra nhanh hơn khi tiếp thu lý thuyết du hành thời gian, nói, “Không. Anh thấy đó, tính liên tục là một mớ cao su dai nhách. Bóp méo nó không dễ chút nào. Nó có khuynh hướng bật trở lại hình dạng ban đầu. Một cá thể sâu bọ không là vấn đề, cả cái hồ lúc nhúc mới thành ra con người”.

“Cũng như thế, nếu tôi giết con cừu trong thời Trung cổ, tôi không quét sạch hậu duệ của nó, tất cả những con cừu có mặt vào năm 1940. Chúng vẫn có đó, không thay đổi đến một mẩu gen dù có ông tổ khác, vì qua một thời kỳ dài đến thế, mọi con cừu, hay con người, đều là hậu duệ của mọi con cừu hay con người sơ khai. Anh không thấy được sự bù đắp, đâu đó dọc theo tuyến thời gian,  sẽ có vài ông tổ khác cung cấp gen mà anh tưởng anh đã tiêu diệt.”

“Tương tự… giá như tôi quay lui và ngăn không cho Booth giết Lincoln. Trừ phi tôi áp dụng những biện pháp đề phòng thật chu đáo, rất có thể vẫn có ai đó bắn Lincoln, và Booth vẫn phải chịu trách nhiệm.”

“Sự co dãn của thời gian khiến cho việc du hành vẫn được cho phép. Nếu anh muốn thay đổi thứ gì, anh phải đi ngay đến đó và làm việc cật lực, thường là vậy.”

Miệng anh méo xệch đi, “Truyền bá ! Chúng ta bị nghe đi nghe lại rằng, nếu ta can thiệp, ta sẽ bị trừng phạt. Tôi không được phép trở lui và bắn tên khốn Hitler khi còn nằm nôi. Tôi cứ để cho hắn lớn lên, phát động chiến tranh và giết con gái tôi.”

Everard lặng lẽ cưỡi ngựa một lúc lâu. Âm thanh duy nhất là tiếng kẽo kẹt của yên da và tiếng những cộng cỏ dài xào xạc. Rồi anh cất tiếng, “Ôi, tôi rất tiếc. Có muốn nói gì thêm không ?”

“Có đấy. Nhưng không nhiều. Cô ấy_ Mary Nelson_ ở trong WAAF (Women’s Auxilairy Air Force, Phụ tá nữ trong không lực Hoàng gia Anh thời Thế chiến 2). Chúng tôi định kết hôn sau chiến tranh. Cô sống ở Luân đôn ngày 17 tháng 11 năm 1944. Tôi không bao giờ quên cái ngày ấy. Quả bom V rơi trúng cô. Cô đã qua nhà hàng xóm ở Streatham_ vì đang kỳ phép, ở với mẹ cô. Căn nhà ấy bị thổi tung, còn nhà riêng của cô không bị sụp đổ.”

Mặt Whitcomb không còn giọt máu. Cái nhìn của anh trống rỗng. “Sẽ không quá khó để đừng trở lại… đừng quay lại, dù chỉ vài năm, gặp cô chỉ một lần. Chỉ là thấy cô lần nữa…Không ! Tôi không dám.”

Everard đặt một tay lên vai người bạn. Họ cưỡi ngựa đi trong yên lặng.

Lớp học cứ tiến lên trước, mỗi người có bước đi riêng, nhưng đều được bù qua sớt lại để tất cả đều cùng tốt nghiệp. Một buổi lễ ngắn, sau đó là tiệc tùng ngất ngay, rồi nước mắt ngắn dài hẹn ngày gặp lại. Rồi từng người quay trở lại đúng năm họ ra đi: và cùng một giờ.

Everard nhận lời chúc mừng của Gordon, nhận danh sách các nhân viên cùng thời (vài người làm ở Sở Tình báo) và trở lại căn hộ của mình. Về sau anh sẽ thấy công việc được sắp xếp sẵn cho anh, nghe những việc nhạy cảm, nhưng nhiệm vụ hiện thời, cố vấn đặc biệt của Công ty Nghiên cứu Kỹ thuật_ truy tìm hồ sơ thuế lợi tức _ chỉ là đọc hàng tá hồ sơ mỗi ngày để tìm chỉ dẫn về các chuyến du hành thời gian anh đã được dạy, và luôn sẵn sàng chờ cuộc gọi. Khi nó xảy ra, là anh thực hiện công tác đầu tiên của mình.

6

Luân đôn, 1944. Đêm đông đầu tiên ập xuống, cơn gió lạnh buốt thổi dọc các đường phố phủ đầy bóng tối. Đâu đó tiếng lộp bộp của một vụ nổ, và lửa bùng lên, lưỡi đỏ liếm qua các mái nhà.

Everard đậu chiếc hopper (tàu bay dạng phễu) trên hè phố_ không ai ngoài đường khi bom V đang rơi_ mò mẫm đi trong bóng tối. Ngày 17 tháng 11: trí nhớ đã được huấn luyện tự động ghi nhận cho anh. Mary Nelson chết vào ngày này.

Anh tìm thấy bốt điện thoại công cộng ở góc đường, đọc hướng dẫn. Có nhiều người họ Nelson, nhưng chỉ có một Mary trong danh sách ở khu Streatham. Dĩ nhiên, đó là người mẹ. Anh đoán cô con gái mang cùng tên. Anh cũng không biết quả bom rơi lúc nào. Nhưng có nhiều cách để biết.

Lửa, sấm sét gầm lên quanh anh khi anh bước ra. Anh vội nằm sấp bụng khi mảnh thủy tinh bay tung nơi anh vừa đứng. Ngày 17 tháng 11 năm 1944. Chàng trai trẻ Manse Everard, trung uý công binh Hoa kỳ, vượt biển Manche, sát bên họng súng Đức. Anh không nhớ được chính xác nơi nào, lúc nào, và không ngừng nỗ lực. Không thành vấn đề. Anh biết anh sắp sống sót qua nỗi nguy hiểm ấy.

Một ngọn lửa nữa bùng lên quanh anh khi chạy đến cỗ máy của mình. Anh nhảy lên boong và bay vọt lên không. Cao trên bầu trời Luân đôn, anh chỉ thấy bóng tối bao trùm, rải rác ánh lửa. Đêm phù thủy. Cả trái đất hoá thành địa ngục !

Anh nhớ rõ khu Streatham, những dãy nhà gạch tồi tàn, dân cư là lớp thư ký, người buôn tạp hóa, thợ cơ khí, tầng lớp tiểu tư sản đã đứng lên chiến đấu với thế lực chinh phục châu Âu để tồn tại. Từng có cô gái sống ở đó, ngược về năm 1943…Rồi sau, cô kết hôn với ai đó khác.

Lướt qua chầm chậm, anh cố tìm địa chỉ. Một núi lửa nổ tung không xa. Con tàu loạng choạng trên không, anh suýt văng khỏi chỗ ngồi. Bay nhanh về quãng trường, anh thấy một ngôi nhà đổ sụp, tan ra, bốc cháy. Chỉ cách nhà Nelson ba khối. Anh đến quá trễ.

Không ! Anh kiểm tra thời gian: chỉ mới 10,30 giờ_ và nhảy lùi hai giờ. Trời vẫn còn tối, ngôi nhà xập xệ còn đứng vững trong bóng đêm. Trong một thoáng, anh muốn báo động cho những người trong nhà. Nhưng không. Khắp nơi trên thế giới, con người đang chết.

Anh gượng cười, xuống tàu, đi qua cổng. Anh đâu phải tên Danellian khốn kiếp. Anh gõ cửa, cửa mở ra. Một phụ nữ trung niên nhìn anh qua màn tối, anh nhận thấy thật kỳ cục khi gặp một người Mỹ mặc đồ dân sự ở đây.

Anh nói, “Xin lỗi. Bà có biết cô Mary Nelson không?”

“Sao cơ. Biết chứ.” Lưỡng lự. “Cổ ở gần đây. Cũng sắp tới đây. Anh là bạn à ?”

Everard gật đầu, “Cổ nhờ tôi mang thư đến cho bà…à, bà…”

“Enderby”.

“À, vâng, bà Enderby. Tôi quên nhãng đi. Thế này, cô Nelson nhờ tôi nói xin lỗi vì không thể đến được. Nhưng cổ muốn bà và cả gia đình đến vào 10,30 giờ”.

“Cả nhà tôi à, thưa ông, nhưng bọn trẻ_”

“Bằng mọi cách, cả bọn trẻ nữa. Mọi người trong gia đình bà. Cổ có bất ngờ đặc biệt, mà đến lúc ấy mới cho biết được. Tất cả đều phải có mặt”.

“À… vâng, thưa ông. Nếu cô ấy muốn thế”.

“Tất cả. Lúc 10,30 giờ. Không được trễ. Đến lúc ấy tôi sẽ gặp bà, bà Enderby”.

Everard gật đầu rồi quay lui ra đường.

Anh đã làm điều anh có thể. Kế tiếp là nhà Nelson. Anh lái chiếc hopper xuống ba khối nhà, đậu lại trong con hẽm tối, đi bộ đến nhà. Đến giờ anh vẫn thấy mình có lỗi, có lỗi như Schtein vậy. Anh tự hỏi hành tinh lưu đày giống thứ gì.

Không có dấu vết gì của tàu con thoi Ing, nó quá lớn không dấu được. Vậy là Charlie vẫn chưa đến. Anh phải vận dụng lỗ tai thôi.

Anh gõ cửa, tự hỏi những gì anh làm cho gia đình Enderby có ý nghĩa gì. Bọn trẻ rồi sẽ lớn lên, sẽ có con, tầng lớp Anh trung lưu bình thường, chắc chắn rồi, nhưng đâu đó vài thế kỷ sau, sẽ có một nhân vật quan trọng sẽ được hay không được sinh ra. Dĩ nhiên, thời gian không phải là không uốn cong được. Trừ những trường hợp hiếm hoi, tổ tiên chính xác không phải là vấn đề, chỉ có biển hồ lúc nhúc những gen người và xã hội loài người. Song, đây là trường hợp hiếm hoi ấy.

Một thiếu nữ mở cửa cho anh. Cô nhỏ người và rất xinh, không có gì đặc biệt nhưng ưa nhìn, y phục gọn gàng. “Cô Nelson ?”

“Vâng ?”

“Tôi là Everard. Tôi là bạn của Charlie Whitcomb. Tôi vào được không ? Tôi có ngạc nhiên nhỏ cho cô”.

Cô nói vẻ ăn hận, “ Tôi sắp phải ra ngoài”.

“Không, cô đừng”. Định tuyến sai. Cô sững người bực tức, “Xin lỗi, nhưng làm ơn giải thích được không ?”

Cô đưa anh vào một hành lang xám xịt, bừa bộn, “Ông không ngồi sao, ông Everard ? Xin đừng nói to. Nhà đang ngủ. Họ phải dậy sớm”.

Everard ngọ ngoạy ngồi yên. Mary ngồi ghé bên mép trường kỷ, mở to mắt nhìn anh. Anh thắc mắc không biết Wulfnoch và Eadgar có phải là tổ tiên của cô không. Phải, chắc chắn… sau bao nhiêu thế kỷ. Cả Schtein nữa.

Cô hỏi, “Anh ở bên Không quân à ? Có phải vì thế mà anh gặp Charlie không ?”

“Không. Tôi bên Tình báo nên mới mặc đồ này. Tôi có thể hỏi cô gặp anh ấy lần cuối khi nào không ?”

“Ồ, mấy tuần trước rồi. Hiện anh đóng ở Pháp. Mong sao cuộc chiến này sớm kết thúc. Bọn họ ngốc quá chừng, không chịu kết thúc nó đi cho rồi, phải không ?” Cô lúc lắc đầu tò mò. “Nhưng mà anh mang tin gì vậy ?”

“Tôi nói ngay đây.” Anh bắt đầu dông dài, nói đến những khó khăn khi vượt biển Manche. Cảm giác nói chuyện với bóng ma thật lạ. Và tình thế của anh ngăn anh nói ra sự thật. Anh rất muốn nhưng khi cố, lưỡi cứ líu lại.

“… và đáng giá gì khi nhận chai mực đỏ làng nhàng vậy ?”

Cô nóng nảy ngắt lời, “Xin anh. Anh vui lòng nói ngay đi. Tối nay tôi có cuộc hẹn”.

“Ô, xin lỗi. Rất xin lỗi. Tôi chắc mà. Cô thấy đó, là thế này”.

Tiếng gõ cửa đã cứu anh. “Xin lỗi”. Cô thì thầm, bước qua tấm màn đen, vén nó ra. Everard theo sau cô.

Cô quay lại, khẽ rít lên, “Charlie !”.

Whitcomb kéo cô vào người anh, không để ý máu ướt đẫm bộ đồ Jutish. Everard bước vào sảnh. Chàng Ănglê hoảng hốt nhìn anh, “Anh…”

Anh ta chụp lấy anh, nhưng Everad đã thoát ra. Chàng Mỹ nói, “Đừng ngốc thế. Tôi là bạn anh. Tôi muốn giúp anh. Nhân tiện, anh có kế hoạch ngu ngốc gì vậy ?”

“Tôi…giữ cô ấy ở đây…Giữ không cho cô đi…”

“Và anh nghĩ họ không có cách gì nhận ra anh sao ?” Everard chuyển sang tiếng Temporal, ngôn ngữ duy nhất dùng được khi có Mary đang sợ hãi, hiện diện. “Khi tôi rời khỏi Mainwethering, anh ta đang rất nghi ngờ. Nếu ta không làm đúng, các đơn vị của Đội Tuần cảnh sẽ được báo động. Lỗi lầm sẽ được sửa, có lẽ bằng cách giết cô ta. Anh sẽ bị đi đày”.

Whitcomb thở dốc, nỗi sợ hiện lên mặt, “Tôi… Anh sẵn sàng cho cô đi ra trước và chết sao ?”

“Không… Nhưng việc này cần làm cẩn trọng hơn”.

“Ta sẽ thoát. Tìm một thời kỳ nào tách riêng hoàn toàn… dù có phải quay lại kỷ khủng long”.

Mary tuột khỏi tay anh. Miệng cô vẫn mở, sắp hét lên. Everard quát, “Câm miệng ! Mạng cô đang nguy. Chúng tôi đang cố cứu cô đây. Nếu không tin tôi thì hãy tin Charlie”.

Quay sang anh chàng, anh nói bằng tiếng Temporal, “Nhìn này, anh bạn, không còn chỗ, không còn thời gian đi trốn đâu. Đêm nay Mary Nelson phải chết. Đó là lịch sử. Cô không còn vào năm 1947. Đó cũng là lịch sử. Bản thân tôi đã ở Hà lan: gia đình cô sắp đi thăm sẽ ra khỏi nhà khi bom rơi xuống. Nếu anh cố trốn chạy cùng cô, người ta sẽ tìm thấy anh. Chỉ nhờ may mắn mà đơn vị Tuần cảnh đã không đến”.

Whitcomb cố bình tĩnh, “Giả sử tôi cùng cô ấy nhảy sang năm 1948. Làm sao anh biết cô ấy không bất ngờ tái xuất vào năm  1948 ? Có thể đó cũng là lịch sử”.

“Con người mà. Anh không thể. Thử đi. Tiếp đi, kể cho cô ấy nghe anh sẽ bốc cô bay vào tương lai bốn năm sau”.

Whitcomb rên rỉ, “món quà tri ân. Và tôi bị đưa điều kiện…”

“Phải. Anh chỉ có một vùng đủ rộng để xuất hiện trước mắt cô, nhưng để nói chuyện với cô, anh phải nói dối vì anh không thể giúp chính bản thân anh. Còn nữa, anh sẽ giải thích cách nào đây. Nếu cô vẫn là Mary Nelson, cô là kẻ đào ngũ khỏi W.A.A.F. Nếu cô mang tên khác, giấy khai sinh cô đâu, học bạ đâu, sổ lương thực đâu và cả đống giấy tờ mà các chính phủ thế kỷ 20 coi trọng. Thật vô vọng, anh trai”.

“Vậy làm gì bây giờ ?”

“Đối diện với Đội Tuần cảnh và diệt nó. Chờ chút.” Everard bình tĩnh, lạnh lùng. Không còn thời giờ để sợ hãi, để thắc mắc nhân cách của mình nữa.

Quay ra đường, anh tìm chiếc hopper, cài đặt cho nó xuất hiện vào tương lai 5 năm sau, buổi trưa ở Công trường Piccadilly. Anh nhấn công tắc chính, nhìn cỗ máy biến mất, rồi trở vào trong. Mary đang trong tay Whitcomb, run rẩy, khóc lóc. Những đứa trẻ tội nghiệp trong rừng !

“Xong rồi.” Everard dẫn họ ra hành lang, ngồi xuống, súng sẵn sàng. “Ta chờ thêm chút nữa”.

Không lâu sau. Một chiếc hopper xuất hiện, có hai người đồ Tuần tra màu xám trên boong. Khí giới trong tay. Everard hạ họ bằng tia sáng năng lượng thấp. Anh nói, “Charlie, giúp tôi trói chúng lại”.

Mary đứng rúm trong góc nhà, không nói lời nào.

Khi bọn người thức tỉnh, Everard nhìn họ cười lạnh, hỏi bằng tiếng Temporal, “chúng tôi bị buộc tội gì đây ?”

Một tù nhân bình tĩnh nói, “Tôi tưởng các anh biết. Sĩ quan chỉ huy ra lệnh chúng tôi theo dõi các anh. Khi kiểm tra tuần lễ kế tiếp, chúng tôi phát hiện các anh giải thoát một gia đình đã lên lịch phải bị bom chết. Ghi chép của Whitocmb cho thấy anh đã đến đây để giúp Whitcomb cứu người phụ nữ phải chết vào đêm nay. Tốt hơn nên để chúng tôi đi, bằng không các anh sẽ chịu hậu quả nặng nề lắm đấy.”

Everard nói, “Tôi không thay đổi lịch sử”.

“Bọn Danellian vẫn ở đó, phải không ?”

“Phải, nhưng _”.

“Làm sao anh biết gia đình Enderby phải chết ?”

“Nhà họ bị phá hủy, và họ nói họ chỉ rời nhà vì _”

“À, nhưng vấn đề là họ phải rời nhà. Điều này đã viết ra. Bây giờ anh mới là người muốn thay đổi lịch sử”.

“Nhưng người phụ nữ này ở đây_”

“Anh có chắc đã không có cô Mary Nelson, là người, xem nào, đã sống ở Luân đôn năm 1850, và chết vì tuổi già năm 1900 ?”

Gã mặt gầy cười, “Anh đang cố hết sức, phải không ? Không tích sự gì. Anh không thể chống cả đội Tuần cảnh”.

“Không thể, cứ tưởng bở. Tôi có thể bỏ anh ở đây cho nhà Enderby tìm thấy. Tôi đã cài đặt cho chiếc hopper xuất hiện trước mắt mọi người vào thời khắc chỉ tôi mới biết. Vậy phải làm gì với lịch sử đây ?”

“Đội Tuần cảnh sẽ có biện pháp sửa chữa…như cho anh quay về thế kỷ 5”.

“Chắc vậy ! Tôi sẽ khiến họ làm rất dễ dàng, nếu họ chịu nghe tôi thỉnh cầu. Tôi cần một tên Danellian”.

“Gì ?”

Everard nói, “Nghe rồi đấy. Nếu cần, tôi sẽ lái chiếc hopper của các anh và vọt lên một triệu năm. Tôi sẽ chỉ cho họ thấy đơn giản biết bao nếu họ cho chúng tôi một lổ hổng”.

Điều đó sẽ không cần thiết

Everad xoay tròn và thở hổn hển. Câu chuyện thú vị đã rơi khỏi tay anh.

Anh không nhìn nổi thứ hình bóng loé lên trước mắt anh. Anh nức nở trong cổ họng khi lùi ra xa.

Giọng nói không âm thanh phát ra, thỉnh nguyện đã được cứu xét. Đã nhiều năm biết đến và ước lượng trước khi anh sinh ra. Nhưng anh vẫn là mối liên kết cần thiết trong sợi chỉ thời gian. Nếu đêm nay anh thất bại, sẽ không được khoan thứ.

Với chúng tôi, là vấn đề hồ sơ rằng đã có một gia đình Charles và Mary Whitcomb sống ở Anh quốc thời Victoria. Cũng là vấn đề hồ sơ rằng bà chết cùng một gia đình bà đến thăm năm 1944, và Charles Whitcomb sống độc thân và về sau chết trong công tác của Đội Tuần tra. Mâu thuẫn cũng được ghi nhận, ngay đến ức thuyết nhỏ nhất là đoạn yếu ớt trong mảnh vải không- thời gian, cần được chỉnh sửa bằng cách xóa bỏ đi một hai yếu tố này khác đã từng tồn tại. Anh đã quyết định đó là cái gì rồi.

Everard biết, trong bộ óc run rẩy của mình, đội Tuần cảnh bỗng nhiên được tự do. Anh biết chiếc đĩa bay đã… đang… bị lôi đi mất, vô hình, vào khoảnh khắc nó hiện ra. Anh biết lịch sử đang đọc: W.A.A.F. Mary Nelson mất tích, cho là chết vì bom gần nhà Enderby, tất cả đang ở nhà cô vì nhà họ đã bị phá hủy; Charles Whitcomb biến mất vào năm 1947, coi là tai nạn chết đuối. Anh biết Mary đã được biết sự thật, là điều kiện để không tiết lộ và quay ngược về với Charlie vào năm 1850. Anh biết họ sống đời trung lưu, không cảm thấy yên ổn dưới thời Victoria, biết rằng Chrlie từng ao ước sống lại đời của Đội viên Tuần cảnh… rồi lại chuyển sang ở với vợ con và quyết định đó chẳng phải là hy sinh gì mấy.

Đó là những gì anh biết, và bọn Danellian biến đi mất. Khi bóng tối tràn ngập trong đầu đã dịu đi, anh hiền lành nhìn hai đội viên Tuần cảnh và anh không biết định mệnh của anh là gì nữa.

Người đầu tiên nói, “Thôi nào. Ta ra khỏi đây trước khi có người thức dậy. Chúng tôi cho anh cái thang để lùi về năm tháng của anh. Phải 1954 không ?”

Everard hỏi, “Rồi sao nữa ?”

Viên Tuần cảnh nhún vai. Dưới vẻ bình thản là cú sốc khi Danellian hiện diện. “Báo cáo với xếp khu vực. Anh phải chứng tỏ mình không hợp với công việc đều đặn”.

“Thế.. bị cách chức, hử ?”

“Anh không cần bi kịch vậy. Anh có nghĩ đây là ca duy nhất suốt một triệu năm của đội Tuần cảnh không ? Có giải pháp sẵn cho nó.”

“Anh cần được huấn luyện thêm. Loại của anh tốt nhất nên gắn với tình trạng đơn thuần_ bất kể thời điểm nào, bất kể không gian nào, bất kỳ chỗ nào, bất kỳ khi nào mà người ta cần đến anh. Chắc anh sẽ thích đấy”.

Everard lẩy bẩy trèo lên boong hopper. Khi anh bay đi rồi, một thập kỷ đã trôi qua.

 

(Các chương 3, 4, 5 sẽ đăng vào dịp khác)

Tháng 10. 2021

NTH

 

 


 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Đăng nhập để gửi phản hồi cho bài viết