TRÊN ĐỈNH CAO QUYỀN LỰC, KỲ 2

Chương 3

 

 CON TÀU VASTERVIK

 

 1.

 

 

Trên bờ biển miền tây Canada – cách Ottawa hai ngàn ba trăm dặm theo đường chim bay – con tàu Vastervik cập bến, giữa những trận mưa rào, ngày hai mươi ba tháng chạp.

Trong hải cảng Vancouver gió thổi từng cơn lạnh buốt. Viên hoa tiêu đã lái tàu cập bến nửa giờ trước, ra lệnh thả ba vòng dây neo và rồi tàu Vastervik đang đu đưa nhè nhẹ, cái mỏ neo khổng lồ kéo căng như sợi dây phanh trên đáy biển phẳng lì đầy phù sa. Đầu tàu bị lôi đi làm nó giật cục và một cuộn sóng tràn vào bờ biển rồi tiếp những cuộn khác.

Mười phút sau, lúc ba giờ chiều, giờ địa phương, con tàu đã nằm yên và neo được cuốn lên.

La Pointe Pier, nơi con tàu buông neo, là một trong nhiều doi đất, trông như ngón tay, nhô ra từ bờ biển đầy ắp những tòa bin-đing náo nhiệt. Quanh con tàu mới đến, ở các cầu tàu lân cận, những con tàu khác đang chất và dỡ hàng. Những kiện hàng được nhanh chóng nâng lên và hạ xuống. Những chiếc xe chở đầy thùng ồn ào tránh đường trên những nhánh đường ray cạnh cảng trong khi những chiếc xe nâng chạy đi chạy lại nhanh như sóc từ các con tàu đến kho. Từ chỗ thả neo bên cạnh một con tàu hàng to lớn hướng ra khơi, một con tàu kéo và dẫn đường chạy đi chạy lại.

Một nhóm ba người đàn ông tiến dần đến chiếc Vastervik. Họ bước từng bước, khéo léo tránh các chướng ngại và những toán công nhân đang làm việc. Hai người mặc đồng phục. Một là nhân viên Hải quan, người kia ở Bộ Di Trú Canada. Người thứ ba mặc thường phục.

Viên Hải quan nói, ‘ Mẹ kiếp! Lại mưa nữa.’

Người mặc thường phục vừa nói vừa cười, ‘ Lên boong tàu chúng tôi đi. Ở đó khô ráo hơn’. Ông ta là đại diện Công ty Vận tải tàu biển.

Viên chức ở Bộ Di Trú nói, ‘ Tôi không để ý tới chuyện đó. Mấy cái xà lan của ông, bên trong còn ướt hơn bên ngoài. Làm sao mà ông giữ cho nó nổi được thì thật là lạ’ . Ông ta có bộ mặt nghiêm nghị và khi nói không hề cười.

Một chiếc thang sắt rỉ sét trên tàu Vastervik đang được hạ xuống.

Nhìn lên hông tàu, viên đại diện Công ty Vận tải nói, ‘ Nhiều khi tôi cũng tự hỏi thế. Ừ mà chắc nó cũng chứa thêm được ba mạng nữa.’ Ông ta đu lên thang, những người kia theo sau.

 

2.

 

 Trong cabin ngay dưới đài chỉ huy, Thuyền trưởng Sigurd Jaabeck, gương mặt thủy thủ dạn dày sương gió, to xương, điềm tĩnh, xốc mớ giấy tờ hợp thức hóa việc xuống tàu cho hàng hóa và thủy thủ đoàn. Trước khi cập bến, viên Thuyền trưởng đã thay ra áo khoác và bộ đồ vải thô để mặc bộ có hai cầu vai nhưng vẫn giữ đôi giày vải mềm kiểu xưa mà ông mang suốt thời gian trên tàu.

Thuyền trưởng Jaabeck nghĩ, cũng may là họ đã thả neo ba ngày và đêm nay có thể ăn trên bờ. Nhẹ cả người khi thoát được mùi phân này. Viên thuyền trưởng nhăn mũi khó chịu trước cái mùi nồng nặc khắp nơi, giống như mùi lưu huỳnh ẩm lẩn với bắp cải thối. Suốt nhiều ngày nó bốc ra từ đống hàng hóa ở khoang số ba, rồi tỏa đi một cách lì lợm khắp tàu qua những ống thông gió. Ông nghĩ, thật phúc đức, chuyến hàng tới của tàu Vastervik là gỗ mới cưa của Canada.

Và, hồ sơ trong tay, ông bước ra lên boong trên.

Trong mạn trái tàu nơi dành cho thủy thủ đoàn, Stubby Gates, một thủy thủ cường tráng, thong thả bước qua căn sảnh nhỏ vuông vức và dơ bẩn vẫn dùng làm chỗ nghĩ ngơi ban ngày. Y bắt gặp một người đang đứng lặng lẽ nhìn qua ô cửa sổ.

Gates là dân Luân đôn. Y có bộ mặt của một tay ưa gây gổ, sứt sẹo, méo mó, thân hình tầm thước, vững chắc và đôi tay dài như vượn làm y trông giống khỉ. Y là người khỏe nhất trên tàu và cũng là người hiền lành nhất, trừ khi bị chọc tức.

Người kia là một chàng trai nhỏ thó, bộ mặt tròn sắc nét, mắt sâu, mái tóc đen để quá dài. Nhìn chung anh còn nhỏ hơn cả một thằng bé.

Stubby Gates hỏi, ‘ Henri, nghĩ dzì dzậy ?’

Trong chốc lát anh chàng kia cứ nhìn mãi ra xa như không nghe gì cả. Bộ tịch anh mang vẻ trông ngóng mà không hề hy vọng, rất lạ, đôi mắt cứ đăm đăm nhìn về chân trời nơi có những tòa bin- đing cao ngất và sạch sẽ, nằm bên kia bến tàu. Âm thanh xe cộ vọng rõ mồn một qua mặt nước và qua bến cảng mênh mông. Rồi, đột ngột, chàng trai nhún vai và quay lại.

‘ Tôi không nghĩ gì cả’. Giọng anh ngắc ngứ trong cổ - nhưng không có ý bất mãn – anh nói tiếng Anh một cách khó khăn.

Stubby Gates nói, ‘Ta sẽ ở lại cảng một tuần. Có đi Vancouver hồi nào chưa?

Chàng trai, tên Henri Duval, lắc đầu.

Gates nói, ‘ Tui có tới đó ba lần. Xuống tàu có nhiều chỗ chơi dzui lắm. Đố ăn thì ngon, dzới lại chú mày dzễ cặp dzới con gái lắm.’ Y liếc xéo Duval. ‘ Nghĩ thử coi lần này họ có cho chú mày lên bờ không?’ Chàng trai buồn rầu trả lời, vẻ chán nản hiện rõ trong giọng nói; những lời này thật khó hiểu nhưng Stubby Gates cũng vỡ được . Henri Duval nói, ‘Đôi khi tôi nghĩ tôi không bao giờ lên bờ nữa.’

 

3.

 

 Thuyền trưởng Jaabeck gặp ba người nói trên khi họ lên boong. Ông bắt tay viên đại diện công ty, viên này giới thiệu hai viên chức Hải quan và Di Trú. Hai người này – đang bận rộn – lịch sự gật đầu chào viên Thuyền trưởng nhưng không bắt tay.

Viên chức Di Trú hỏi, ‘Thuyền trưởng, thủy thủ của ông tập trung chưa?’ Thuyền trưởng Jaabeck gật đầu. ‘Mời theo tôi.’

Đây là thông lệ quen thuộc và không cần ra lệnh cho thủy thủ đoàn lên phòng ăn của sĩ quan ở giữa tàu. Họ đang xếp hàng ở ngoài trong khi các sĩ quan chờ trong phòng

Stubby Gates huých cùi chỏ Henri Duval khi thuyền trưởng dẫn nhóm người này đi qua. Gates thì thầm ,

‘ Đó là người nhà nước. Họ sẽ cho chú mày lên bờ hay không đó.’

Henri Duval quay sang gã lõi đời, nói nhỏ, ‘Tôi sẽ cố.’ Có vẻ hăng hái trẻ thơ trong giọng nói nằng nặng của anh, vẻ chán nản ban đầu đã biến mất . ‘Tôi sẽ cố làm. May ra thì được ở lại.’

Stubby Gates vui vẻ, ‘ Henri, nó là nhựa sống đó nghen. Đừng có nói chiện chết.’

Trong phòng ăn, người ta đã chuẩn bị một cái bàn và ghế ngồi cho viên chức Di Trú. Ông ta ngồi xuống, đọc bản danh sách thủy thủ được đánh máy mà viên Thuyền trưởng đã trao cho ông. Bên kia, viên chức Hải quan đang lật các biểu kê hàng hóa.

Viên chức Di Trú nói, ‘Ba mươi sĩ quan cùng thủy thủ và một người đi lậu. Có đúng không, Thuyền trưởng?’

Thuyền trưởng gật đầu, ‘Đúng’ .

‘ Ông nhặt được người đi lậu này ở đâu vậy?’

Thuyến trưởng nói, ‘ Ở Beirut. Y tên Duval. Y ở với chúng tôi cũng lâu rồi. Rất lâu..’

Vẻ mặt viên chức Di Trú không thay đổi.

‘ Tôi xem các sĩ quan trước.’ Ông ra hiệu cho viên sĩ quan đầu tiên bước lên trước, người này xuất trình thông hành Thụy Điển.

Sau các sĩ quan, đến thủy thủ xếp hàng đi vào. Mỗi cuộc thẩm vấn đều ngắn gọn. Tên, quốc tịch, nơi sinh, vài câu hỏi chiếu lệ. Sau đó, từng người một bước qua phần viên chức Hải quan.

Duval là người sau cùng. Đối với anh, những câu hỏi của viên chức Di Trú không chiếu lệ chút nào. Anh trả lời cẩn thận , sôi nổi, bằng tiếng Anh bập bẹ. Vài thủy thủ, có cả Stubby Gates, còn đứng phía sau, lắng nghe.

Phải, tên anh là Henri Duval. Phải, anh là người đi lậu trên tàu. Phải, anh lên tàu ở Beirut, Liban. Không, anh không phải công dân Liban. Không, anh không có thông hành. Anh chưa bao giờ có thông hành. Cũng không có giấy khai sinh. Không có giấy tờ gì cả. Phải, anh biết nơi sinh của mình. Đó là Somalia thuộc Pháp. Mẹ anh người Pháp, cha người Anh. Mẹ anh đã chết, anh không biết cha. Không, anh không có cách nào chứng minh những gì anh nói là đúng sự thật. Phải, anh đã bị từ chối không cho vào Somalia thuộc Pháp. Không, các viên chức không tin câu chuyện của anh. Phải, anh đã bị từ chối lên bờ ở các hải cảng khác. Có nhiều cảng. Anh không nhớ hết. Phải, chắc chắn anh không có giấy tờ. Bất cứ giấy gì.

Đây chỉ là sự lập lại cuộc thẩm vấn ở những nơi khác. Trong khi nó tiếp diễn niềm hi vọng thoáng hiện trên mặt chàng trai biến thành thất vọng. Nhưng cuối cùng anh lại cố gắng một lần nữa.

Anh van nài, ánh mắt tìm trên mặt viên chức Di Trú một niềm thông cảm. ‘ Tôi sẽ làm việc. Xin ông – tôi làm việc rất giỏi. Làm việc ở Canada.’ Anh phát âm từ cuối cùng này một cách vụng về, giống như anh có học nhưng chưa trôi.

Viên chức Di Trú lắc đầu. Không phải ở đây. Anh không được phép.’ Ông nói với thuyền trưởng Jaabeck, ‘ Thuyền trưởng, tôi sẽ ra lệnh ngăn cấm trường hợp đi lậu này. Ông có trách nhiệm không cho anh ta lên bờ.’

Viên đại lý tàu biển nói, ‘ Chúng tôi sẽ lo vụ này.’

Viên chức Di Trú gật đầu, ‘ Các thủy thủ còn lại không có vấn đề gì.’

Những người còn lại lục tục bỏ đi vừa lúc Stubby Gates lên tiếng.

‘ Tui có một lời dzới các ông, được không?’

Viên chức Di Trú ngạc nhiên, nói ‘ Được’.

Có mấy người ngừng ở cửa và một, hai người lẻn vào trong.

‘ Là dzề anh Henri đây.’

Giọng viên chức Di Trú sắc lạnh, ‘ Về anh ta cái gì?’

‘Dzà, thấy là tới Nô-ên còn hai ngày nữa. mà tụi tui còn ở trong cảng, mấy người tụi tui nghĩ là, tụi tui dắt Henri lên bờ chơi, một bủi tối thôi.’

Viên chức Di Trú nghiêm khắc nói, ‘ Tôi đã nói rồi, anh ta phải ở trên tàu’.

Stubby Gates cao giọng, ‘ Tui biết hết mấy chuyện đó . Nhưng mà chưa thấy quan tài chưa đổ lệ sao?’ Y không có ý nổi cáu nhưng y có cái ý khinh bỉ của thủy thủ đối với các viên chức trên đất liền.

Viên chức Di Trú quắc mắt , giọng khàn khàn , ‘ Thôi đủ rồi!’

Thuyền trưởng Jaabeck bước lên phía trước. Các thủy thủ trong phòng căng thẳng chờ đợi.‘ Mày cũng đủ rồi, thằng pêđê kia.’

Stubby Gates nói với vẻ khiêu khích, ‘ Nhưng khi con người ta gầng hai năm chưa ra khỏi tàu, mà lại Nô-ên nữa’.

Viên thuyền trưởng nói gọn lỏn, ‘ Gates, thế đủ rồi’.

Yên lặng. Viên chức Di Trú đỏ bừng mặt , lặng thinh. Rồi ông ta ngờ vực nhìn Stubby Gates và vói, ‘ Có phải anh cố bảo tôi anh Duval này suốt hai năm chưa lên bờ không?’

Thuyền trưởng Jaabeck nhẹ nhàng xen vào, ông nói tiếng Anh trôi chảy chỉ có một chút giọng Nauy, ‘ Không hẳn là hai năm. Vì hai mươi tháng trước, anh này đi lậu lên tàu tôi. Không nước nào cho phép anh lên bờ. Ở mọi cảng, mọi nơi, tôi được nghe cùng một điều: Anh ta không có thông hành, không giấy tờ. Vì vậy anh ta không thể rời chúng tôi. Anh ta là của chúng tôi’. Viên thuyền trưởng giơ bàn tay khổng lồ lên, ngón tay xòe ra, cử chỉ tỏ dấu thắc mắc, ‘ Tôi phải làm gì đây – đem anh ta cho cá ăn vì không xứ nào chứa chấp anh sao?’

Không khí căng thẳng đã tan. Stubby Gates đứng lùi lại, yên lặng, tỏ vẻ kính trọng viên Thuyền trưởng. Viên chức Di Trú, không còn vẻ gai góc nữa – nghi ngờ nói, ‘ Y nhất quyết y là người Pháp – sinh ở Somalia thuộc Pháp?’

Thuyền trưởng đồng ý, ‘ Đúng đó. Không may người Pháp cũng đòi giấy tờ, mà anh này lại không có. Anh ta thề với tôi anh ta chưa bao giờ có giấy tờ và tôi tin như thế. Anh ta là một công nhân giỏi và thành thật. Trong hai mươi tháng thì người ta biết điều này rõ lắm.’

Henri theo dõi cuộc trao đổi, mắt anh nhìn đầy hi vọng từ người này sang người kia. Rồi nhìn về viên chức Di Trú.

‘ Rất tiếc, anh ta không thể xuống Canada.’ Viên chức Di Trú hình như lo lắng. Dù ngoài mặt có vẻ nghiêm nghị, ông không phải là người khắc nghiệt và nhiều khi, ông ao ước luật lệ trong công việc của ông đừng rõ ràng quá. Nửa như ân hận, ông nói thêm, ‘ Thuyền trưởng, chắc là tôi không làm gì được.’

Vẫn là Stubby Gates, cố nằn nì như cái chất Luân đôn của mình, ‘ Một tối cũng không được hay sao?’

Câu trả lời là một phán quyết cuối cùng gọn lỏn, ‘ Một tối cũng không. Tôi sẽ cho lệnh cấm ngay bây giờ’.

Đã một giờ đồng hồ kể từ khi cập bến và bên ngoài con tàu, hoàng hôn đang buông xuống.

 

4.

 

 Quá mười một giờ đêm, giờ Vancouver, khoảng hai tiếng sau khi Thủ Tướng đã đi ngủ ở Ottawa. Trong cơn mưa như trút, một chiếc taxi ngừng ở lối vào La Pointe Pier hoang vắng và tăm tối. Hai người đàn ông ra khỏi xe, một người là phóng viên, người kia là nhiếp ảnh viên của tờ báo Vancouver Post.

Dan Orliffe, tay phóng viên, to lớn dềnh dàng, ăn mặc chải chuốt, quá ba mươi tuổi, gò má rộng và hồng hào, vẻ thong dong làm anh giống một chủ trại tốt bụng hơn là một nhà báo thành công và đôi khi tàn nhẫn. Trái lại Wally De Vere, tay nhiếp ảnh gầy gò cao 1,8m có tác phong nhanh nhẹn nhạy bén, che đậy vẻ bi quan cố hữu.

Khi chiếc xe đã quay đi, Dan Orliffe nhìn quanh, kéo cao cổ áo che mưa gió. Thoạt đầu, ánh đèn xe đột ngột biến đi làm khó nhìn. Quanh chỗ họ đứng, những hình ma bóng quỷ như hư như thực, những vệt đen như thẫm hơn và mặt nước long lanh. Những tòa bin-đing vắng vẻ, lặng ngắt lờ mờ hiện ra, đường nét nhạt nhòa thành những hình khối. Rồi dần dần, khi mắt đã quen với bóng tối, những cái bóng đã rõ nét hơn,, anh nhận ra họ đang đứng trên một đoạn đường rộng, dốc thoai thoải, bằng xi măng chạy song song với bờ biển.

Phía sau con đường mà chiếc taxi đã đưa họ đến, những ống hình trụ vươn cao của một chiếc xe nâng ngũ cốc và những cái lán của bến tàu tối đen. Bên cạnh là từng chồng hàng phủ vải dầu nằm rải rác trên con đường dốc và từ con đường dốc này , hai cầu tàu vươn ra phía ngoài như cánh tay giang trên mặt nước. Ở hai bên mỗi cầu tàu, những con tàu bỏ neo và vài ánh đèn mờ tỏ cho thấy có năm chiếc. Nhưng không có lấy một bóng người hay một cái gì chuyển động.

De Vere đã khoác lên vai camera và đồ nghề của anh. Rồi anh đi về hướng mấy con tàu. Anh hỏi, ‘ Chiếc nào đây?’

Dan Orliffe sử dụng cây đèn pin để đọc tờ giấy mà viên chủ bút phụ trách phần tin ban đêm ở thành phố đã trao cho anh theo một tin riêng qua điện thoại. Anh nói, ‘ Chúng ta cần chiếc Vastervik. Có thể là một trong những chiếc này.’ Anh quay sang phải và tay nhiếp ảnh đi theo. Mới ra khỏi xe có dăm phút mà áo mưa của họ đã đọng những nước. Dan cảm thấy chân mình ướt đẫm và một dòng nước chảy trong cổ áo.

De Vere phàn nàn, ‘ Cái họ cần ở đây là con búp bê trong quầy điện thoại.’ Họ thận trọng len qua những két đựng hàng dễ vỡ và những thùng dầu để bừa bãi, ‘ Nhân vật ta đang tìm là ai vậy?’

Dan nói, ‘ Tên Henri Duval. Theo tòa soạn, y là người vô tổ quốc. Không ai cho y ra khỏi tàu cả.’

Tay nhiếp ảnh gật gù như một nhà hiền triết, ‘ Chuyện buồn, hả? Tôi lấy tựa là – ‘Chuyện một người không nơi nương tựa trong Ngày Áp Lễ Giáng sinh.’

Dan thừa nhận, ‘ Đó cũng là một khía cạnh. Anh nên viết nó ra’.

De Vere nói, ‘ Không phải tôi. Khi ta tới đây, tôi đã đưa những cái cần in vào máy sấy rồi. Vả chăng, tôi dám cá mười ăn năm, thằng cha này là đồ dởm’ .

Dan lắc đầu, ‘ Chả dại. Anh sẽ thắng thôi’ .

Họ đã đi qua được nửa cầu tàu bên phải, bước cẩn thận bên một dãy xe chở hàng bằng đường ray. Mười lăm mét bên dưới, trong bóng tối, mặt nước sáng lấp lánh và tiếng mưa rơi lõm bõm trên mặt nước đang dâng lên.

Tới chiếc tàu đầu tiên, họ ngẩng đầu lên đọc tên nó. Tên viết bằng tiếng Nga. Dan nói, ‘ Đi tiếp. Không phải đây.’

Tay nhiếp ảnh đoán mò, ‘ Chắc là chiếc cuối cùng. Thường là vậy.’

Nhưng nó lại là chiếc thứ hai. Tên Vastervik sáng lóe ở mạn tàu trên cao, còn bên dưới là những mảng rỉ sét nham nhở.

Giọng De Vere thoáng vẻ nghi ngờ, ‘ Cái đống bù loong đinh tán này mà lại nổi được sao? Hay có ai chơi khăm đây?’

Họ bám vào cái thang rệu rã leo lên và đứng trên cái gọi là boong chính của tàu.

Nhìn từ bên cầu tàu, dù là trong bóng tối, chiếc Vastervik nom thật khốn khổ. Còn bây giờ, đến gần hơn, những dấu hiệu bỏ bê, không sửa sang đã quá rõ ràng. Màu sơn phai cùng những vệt rỉ sét loang lổ trải khắp cấu trúc ở tầng thượng, cửa nẻo và các vách ngăn. Đây đó những vệt sơn chảy rịn xuống còn sót lại đã bóc ra từng mảng. Dưới ánh sáng một bóng đèn tròn hiu hắt trên cầu thang, còn nhìn thấy được lớp cáu bẩn và gần đó là những thùng đã mở nắp đựng cái gì như là cải bắp. Hơi xa về phía trước, một ống thép thông gió đã bị ăn mòn và nắp chụp đã vỡ ra. Có lẽ không sửa được nữa, nó được buộc lại bỏ lăn lóc trên boong.

Dan khịt mũi.

Tay nhiếp ảnh nói, ‘ Ối chà! Tôi cũng đang chịu trận đây.’

Mùi phân vẫn bốc ra từ trong con tàu.

Dan bảo, ‘ Ta cố vậy.’ Anh mở một cánh cửa thép ngay phía trước và bước xuống một lối đi hẹp.

Cách đó vài thước có hai ngả rẽ. Bên phải là một dãy những cánh cửa cabin – rõ ràng là khu sĩ quan. Dan quay sang trái tiến về một lối cửa cách một quãng ngắn có ánh sáng chiếu ra từ đó. Hóa ra là nhà ăn.

Stubby Gates, áo cổ lọ dính đầy dầu mỡ, đang ngồi trên bàn đọc một tờ tạp chí dành cho thiếu nữ. Y nói, ‘ Chào ông thầy. Ông thầy là ai dzậy?’

Dan bảo, ‘ Tôi ở tờ Vancouver Post. Tôi tìm một người tên Henri Duval.’

Gã thủy thủ ngoác miệng ra cười phơi cả hàm răng đóng bợn đen xì, ‘ Thằng nhỏ Henri mới ở đây, nhưn mà nó về phòng nó rồi.’

Dan nói, ‘ Ông thấy chúng tôi đánh thức anh ta dậy được không? Hay là nên gặp Thuyền trưởng?’

Gates lắc đầu, ‘ Cứ để ổng yên hay hơn. Còn trong cảng mà đánh thức ổng dậy, ổng dễ nổi khùng. Mà để coi. Tui kêu Henri dậy cho anh.’ Y liếc De Vere, ‘ Xừ này ai đây?’

‘ Hắn đi chụp hình đó.’

Gã thủy thủ đứng dậy, nhét tờ tạp chí vào túi. Y nói, ‘ Được rồi, quí dzị theo tui.’

Họ đi xuống lối đi vừa lọt hai người, tiến vào trong lòng tàu . Trong hành lang mờ tối có ánh đèn tù mù, Stubby Gates đập vào một cánh cửa, xoay chìa khóa và mở ra. Đi vào bên trong, y mở công tắc đèn.

Y gọi, ‘Henri, thò chân ra, có hai xừ cần gặp chú mày đây.’ Y đứng quay lưng, ra hiệu cho Dan.

Bước đến cửa Dan trông thấy một hình bóng nhỏ bé ngồi ngái ngủ trên cái giường sắt. Rồi anh nhìn quang cảnh phia sau.

Anh nghĩ, ‘ Chúa tôi. Người ta sống như vầy sao?’

Đó là một cái hộp kim loại – một khối vuông khoảng chừng một mét vuông. Trước đây đã lâu, các bức tường sơn màu nâu xám nhưng giờ màu sơn đã hầu phai và rỉ sét thế chỗ cho nó. Cả sơn và rỉ sét có một lớp váng ở trên và khi có những giọt nước chảy xuống chúng hòa lẫn vào nhau. Cái giường đơn bằng sắt chiếm hết chiều dài một bức tường và phần lớn chiều rộng bên trong. Bên trên là một ngăn kệ nhỏ dài chừng ba tấc, rộng một tấc rưỡi. Dưới giường là một cái xô sắt. Và chỉ có thế.

Không cửa sổ, không lỗ tròn. Chỉ có một ống thông gió trên đầu giường.

Và không khí nồng mùi hôi thối.

Henri dụi mắt nhìn đám người đứng ngoài. Dan Orliffe ngạc nhiên sao gã đi lậu này trẻ đến thế. Mặt cậu ta tròn, tươi tỉnh, đường nét cân đối và đôi mắt đen sâu thẳm. Cậu mặc áo thun lót, sơ mi bằng nỉ mỏng không cài nút, quần vải thô. Dưới lớp quần áo, thân thể cậu ta có vẻ chắc nịch.

Dan nói (bằng tiếng Pháp), ‘Chào anh Duval. Xin lỗi đã quấy rầy giấc ngủ của anh. Chúng tôi là nhà báo và có nghe anh có một câu chuyện rất hay muốn kể với chúng tôi.’

Kẻ đi lậu chầm chậm lắc đầu.

Stubby Gates xen vào, ‘ Henri nói tiếng Pháp dở ẹt. Nó không hiểu đâu. Làm như nó nói cái tiếng dzì đó pha tạp lung tung từ khi nó còn nhỏ. Ráng nói tiếng Anh thử coi, mà nói chầm chậm thôi.’

‘ Được thôi.’ Quay sang kẻ đi lậu, Dan nói từ tốn. ‘ Tôi ở tờ Vancouver Post. Báo ấy mà. Chúng tôi muốn biết về anh. Anh có hiểu không?’

Yên lặng. Dan thử lại. ‘ Tôi muốn nói chuyện với anh. Và tôi sẽ viết về anh.’.

‘ Tại sao ông viết?’ Những chữ - lần đầu tiên Duval thốt ra – lẫn lộn giữa ngạc nhiên và nghi ngờ.

Dan kiên nhẫn nói, ‘ Không chừng tôi có thể giúp được anh. Anh có muốn rời khỏi con tàu này không?’

‘Ông giúp tôi rời tàu? Kiếm việc làm? Sống ở Canada?’ Những lời ra khỏi miệng một cách vụng về, nhưng vẻ hào hứng thì không thể nào lầm được.

Dan lắc đầu. ‘Không, tôi không làm thế được. Nhưng có nhiều người sẽ đọc những gì tôi viết. Một người nào đó đọc những điều này có thể giúp được anh.’

Stubby chen vô: ‘ Henri, mày có mất dzì đâu! Cũng chẳng có chết ai; biết đâu chừng lại hay cho mày.’ Henri ra vẻ suy nghĩ.

Ngắm thật kỹ, Dan thấy cho dù trong lòng cậu ta ra sao đi nữa, chú nhỏ đi lậu này có vẻ trang nghiêm một cách tự nhiên, không dễ xúc phạm.

Rồi chú gật đầu và nói một cách giản dị, ‘ Đồng ý.’

Stubby Gates nói, ‘ Henri, cứ nói chiện mày ra. Mày đi rửa ráy đi. Tao dzới mấy xừ này đi lên trên kia chờ mày trong nhà ăn.’

Chú nhỏ gật đầu và duỗi người trên giường một cách dễ chịu.

Khi đi ra, De Vere nói khẽ, ‘ Tội nghiệp chú nhỏ.’

Dan hỏi, ‘ Lúc nào nó cũng bị nhốt trong đó sao?’

Stubby Gates nói, ‘ Chỉ bủi tối khi tụi tui ở trong cảng. Lịnh của thuyền trưởng.’

‘ Tại sao?’

‘ Để cho chắc là nó không chuồn đi. Thuyền trưởng chịu trách nhiệm đối dzới tụi nó, hiểu không?’ Gã thủy thủ dừng lại trước một lối đi chung. ‘ Ở đây đối dzới nó không tệ như ở Mỹ. Khi tụi tui ở Frisco ( San Francisco). Tụi nó còng tay thằng nhỏ vào giường..

Họ đến nhà ăn và đi vào trong.

Stubby Gates hỏi, ‘Trà nghen?’ Dan nói, ‘ Tốt quá. Cám ơn.’

Gã thủy thủ lấy ra ba cái cốc có quai rồi đi lấy bình trà bằng sứ đang để trên đĩa nóng. Y rót cái thứ nước đậm đen vào cốc đã chế sẵn sữa. Vừa đặt cốc trên bàn ăn y vừa ra hiệu cho hai người ngồi xuống.

Dan nói,’ Tôi cứ ước gì được ở trên con tàu như thế này. Ông thật tử tế.’

Gã thủy thủ cười vui vẻ, ‘Anh bạn cứ nói dzậy. Có người biết phải biết quấy chớ. Cũng có người kỳ cục hết chỗ nói.’ Y nhìn họ biết ơn.

Dan hỏi, ‘Ông nghĩ sao về Henri Duval’. Y cầm cốc trà nốc một hơi rồi mới trả lời.

‘ Nó là một thằng nhỏ dễ thương. Tụi tui ai cũng ưa nó. Hễ tụi tui biểu làm là nó làm. Mà một thằng đi lậu đâu có phải làm gì. Luật đi biển nó dzậy.’ Y nói thêm ra vẻ hiểu biết.

Dan hỏi, ‘Ông có trong thủy thủ đoàn khi nó đi lậu lên tàu không?’

‘ Đồ chết dzịch!. Tụi tui tìm được nó khi đã ra khỏi Beirut hai ngày. Ốm nhom như cọng chủi, nó dzậy đó. Tui tính là thằng con tội nghiệp này sắp chết đói khi nó chui lên tàu.’

De Vere nhấp một ngụm trà rồi đặt xuống.

Và ông chủ tiệc vui vẻ nói tiếp, ‘ Sặc mùi máu, phải hông? Nó có hương dzị kẽm đặc. Tui tui bốc cả một tàu đầy những thứ này ở Chilê. Mùi máu của nó dzính dzô đủ thứ. Tóc, tai, mắt mũi, trà cũng dzính luôn.’

Chàng nhiếp ảnh viên nói, ‘ Cám ơn. Giờ tôi có thể báo cho bệnh viện biết được rồi!’

Mười phút sau Henri Duval đến nhà ăn. Trong thời gian ấy, chú đã rửa mặt mũi, chải đầu và cạo râu.

Ngoài áo sơ mi chú mặc thêm áo len đan thủy thủ màu xanh. Quần áo chú tuy cũ nhưng sạch sẽ. Dan để ý thấy có một vết rách ở quần đã được mạng lại khéo léo.

Stubby Gates nói, ‘ Henri, tới đây, ngồi xuống.’ Y rót thêm một cốc nữa và đặt trước mặt kẻ đi lậu. Đây là lần đầu tiên chú cười trước sự hiện diện của hai chàng phóng viên và nó làm gương mặt chú sáng lên, trông càng có vẻ trẻ thơ hơn bao giờ.

Dan mở đầu cuộc phỏng vấn một cách chân tình, ‘ Em bao nhiêu tuổi?’

Thoáng một chút lưỡng lự, rồi Duval nói, ‘ Tôi hai mươi ba tuổi.’

‘ Em sinh ở đâu?’

‘ Tôi sinh tên tàu.’

‘Tên chiếc tàu là gì?’

‘ Tôi không biết.’

‘ Làm sao em biết em sinh trên tàu.’

Lại ngừng , ‘ Tôi không hiểu.’

Dan kiên nhẫn lập lại câu hỏi. Lần này Duval gật đầu. Chú nói, ‘Mẹ tôi bảo.’

‘ Mẹ em quốc tịch gì?’

‘ Bà người Pháp.’

‘ Mẹ em hiện ở đâu?’

‘ Bà mất rồi.’

‘ Bà mất khi nào?’

‘ Đã lâu rồi. Ở Addis Ababa.’

Dan lại hỏi, ‘ Cha em là ai?’

‘ Tôi không biết ông ấy.’

‘ Mẹ em có bảo cho em biết về ông không?’

‘ Ông người Anh. Là thủy thủ. Tôi chưa bao giờ gặp.’

‘ Em chưa bao giờ nghe tên ông à?’ Một cái lắc đầu phủ định.

‘ Em có anh chị em gì không?’

‘ Không có anh chị em.’

‘ Mẹ em mất khi nào?’

‘ Xin lỗi – Tôi không biết.’

Dan lập lại câu hỏi một cách khác, ‘Em có biết em bao nhiêu tuổi khi mẹ em mất không?’

‘ Tôi sáu tuổi.’

‘ Sau đó ai trông nom em.’

‘ Tự tôi.’

‘ Em có đi học bao giờ chưa?’

‘ Không học gì cả?’

‘ Em biết đọc biết viết không?’

‘ Tôi viết được tên – Henri Duval.’

‘ Gì nữa?’

Duval nhấn mạnh, ‘ Tôi viết được tên. Tôi chỉ cho coi.’

Dan đẩy tờ giấy và cây bút chì lên mặt bàn. Chậm chạp và run rẩy, bàn tay trẻ thơ của kẻ đi lậu ký tên mình. Cũng đọc ra được nhưng chỉ thế thôi.

Dan phác một cử chỉ quanh người, ‘ Tại sao em đi lậu lên tàu này?’

Duval nhún vai, ‘ Tôi cố đi tìm tổ quốc.’ Chú khổ sở tìm lời , rồi nói thêm, ‘ Liban không tốt.’

‘ Sao không tốt?’ , Dan đã vô tình sử dụng lối nói ngắn gọn của kẻ đi lậu trẻ tuổi.

‘ Tôi không phải công dân. Nếu cảnh sát tìm được, tôi đi tù.’

‘ Làm sao em đến được Liban?’

‘ Tôi ở trên tàu.’

‘ Đó là tàu gì?’

‘ Tàu Ý . Xin lỗi – tôi không nhớ tên.’

‘ Em là hành khách trên chiếc tàu Ý này à?’

‘ Tôi đi lậu. Tôi ở trên tàu một năm. Cố để xuống. Không ai cho.’

Stubby Gates xen vào, ‘ Theo tui đoán, nó đã ở con tàu Ý này, hiểu không? Tụi nó chạy tới chạy lui dzòng dzòng ở miệt Trung Đông. Rồi nó ghé dzô Beirut, xong cái nó bốc thằng nhỏ này luôn. Phải dzậy hông?’

Dan nói, ‘ Hiểu rồi’. Và quay sang Duval, ‘ Em làm gì trước khi em lên con tàu Ý đó?’

‘ Tôi đi với đám đàn ông, lạc đà. Họ cho tôi cái ăn. Tôi làm việc. Chúng tôi đi Somalia, Ethiopi, Ai Cập.’ Chú phát âm những tên này một cách vụng về, lấy tay phác cử chỉ tới tới lui lui, ‘ Khi tôi còn nhỏ, băng qua biên giới không có chuyện gì. Không ai dòm ngó. Rồi khi tôi lớn lên, họ chận lại – không ai cho.’

Dan hỏi, ‘ Và đó là khi em đi lậu lên tàu Ý . Đúng không?’ Chú nhỏ gật đầu thừa nhận.

Dan hỏi, ‘ Em có thông hành, giấy tờ gì không? Bất cứ giấy tờ gì chứng minh là mẹ em từ đâu đến?’

‘ Không có giấy tờ.’

‘ Em có thuộc về một quốc gia nào không?’

‘ Không quốc gia.’

‘ Em muốn có một tổ quốc không?’ Duval trông có vẻ bối rối.

Dan nói chậm rãi, ‘ Nghĩa là, em muốn ra khỏi chiếc tàu này. Em có bảo với tôi thế.’ Một cái gật đầu thừa nhận mạnh mẽ.

‘ Và em muốn có một quốc gia – một nơi để sống?’ Duval nhấn mạnh, ‘ Tôi làm việc. Tôi làm việc giỏi.’

Một lần nữa, Dan trầm ngâm dò xét gã đi lậu trẻ tuổi này. Có phải câu chuyện một kẻ lang thang không nhà cửa này là sự thực? Hay thật ra, gã có phải là một kẻ bị từ bỏ, một đứa con sinh ra ngoài ý muốn, kẻ mà không ai thừa nhận, không ai muốn có? Hay gã là một kẻ vô tổ quốc? Hay tất cả chuyện này đều là giả tạo, một sự pha trộn tinh vi giữa dối trá và đôi chút sự thật có tính toán để tìm sự cảm thông?

Gã đi lậu trẻ tuổi này trông khá ngây thơ vô tội. Nhưng hắn có thực bụng không?

Đôi mắt như khẩn cầu nhưng bên trong nó là cả một bức màn bí mật. Có một ánh quỉ quyệt nào đằng sau nó không, hay sự tưởng tượng đang chơi trò lừa gạt ?

Dan Orliffe lưỡng lự. Anh biết những gì anh viết sẽ bị đối thủ của tờ Post, tờ báo buổi trưa Vancouver Colonist, băm vằm ra mà bới lông tìm vết.

Không có gì phải vội, anh hiểu rõ phải mất nhiều thời gian để hiểu cho rõ câu chuyện này. Anh nhất định phải soát lại những mối nghi ngờ của mình thật tỉ mỉ.

Anh hỏi gã đi lậu, ‘ Henri, em có tin tôi không?’

Trong thoáng chốc, vẻ nghi ngờ ban đầu trở lại trong mắt gã trẻ tuổi. Rồi đột ngột chú ta gật đầu.

Chú nói đơn giản, ‘ Tôi tin.’

Dan nói, ‘ Được rồi. Tôi nghĩ có lẽ tôi giúp được. Nhưng tôi muốn biết tất cả về em, ngay từ đầu.’ Anh liếc về phía De Vere đang chuẩn bị đồ nghề.’ Trước hết phải chụp vài pô hình, rồi chúng ta sẽ nói chuyện. Và đừng bỏ sót chuyện gì, cũng đừng vội, vì phải mất nhiều thời gian đấy.’

 

5.

 

 Henri Duval vẫn còn thức nhưng mệt đừ trong phòng ăn của con tàu Vastervik. Gã nhà báo có miệng lưỡi thật lắt léo.

Anh chàng đi lậu trẻ tuổi nghĩ, đôi khi khó biết chắc là gã muốn gì. Gã hỏi nhiều và đáp trả chỉ là những câu ngắn ngủn. Và mỗi câu trả lời đều được viết thật nhanh lên tập giấy trên bàn trước mặt họ. Làm như chính con người Duval đang được vẽ ra qua đầu bút nhọn chạy vội vã. Cuộc đời anh là quá khứ được xếp đặt theo thứ tự. Song le, phần lớn cuộc đời anh, vốn chẳng có gì là thứ tự, chỉ là những mảnh vụn rời rã. Và có quá nhiều điều khó mà kể lại trong vài lời đơn giản – theo cách nói của gã phóng viên – hay, dù chỉ là nhớ lại đúng theo cách mà nó đã xảy ra.

Phải chi anh biết đọc, biết viết, để sử dụng bút giấy ghi nhận những sự việc trong tâm trí như con người này và những người khác như ông ta vẫn làm. Thì anh – Henri Duval – đã có thể ghi nhớ những ý nghĩ và những kỷ niệm của quá khứ. Và không cứ phải chứa hết mọi thứ vào trong đầu óc, như trong một ngăn kệ, với hi vọng nó sẽ không bị rơi vào vùng quên lãng, như một vài điều hình như đã xảy ra để bây giờ anh đang phải lục tìm.

Mẹ anh đã có lần nói đến việc đi học. Khi còn nhỏ, bà cũng được học đọc, học viết. Nhưng việc ấy đã xa xưa rồi. Trước khi anh có thể bắt đầu việc học. Sau đó, chẳng còn ai khác lưu tâm đến việc anh đi học nữa.

Anh nhíu mày, gương mặt trẻ thơ nhăn lại, lần mò cố nhớ; cố trả lời những câu hỏi; ráng nhớ, nhớ, nhớ lại…

Trước hết là con tàu. Mẹ anh đã bảo cho anh hay về nó, chính trên con tàu ấy anh đã ra đời. Họ đi từ Djibouti, ở Somali thuộc Pháp, vào ngày trước ngày sinh của anh và anh tin là mẹ anh có lần bảo với anh con tàu này chạy đi đâu, nhưng anh đã quên từ lâu, và nếu như bà có nói con tàu này mang cờ gì, thì điều đó anh cũng quên luôn.

Việc sinh nở khó khăn và không có bác sĩ. Mẹ anh yếu đi, lên cơn sốt và Thuyền trưởng phải cho tàu quay lại Djibouti. Ở cảng, hai mẹ con được đưa vào bệnh viện dành cho người nghèo. Thỉnh thoảng họ cũng có chút ít tiền. Henri nhớ lại mẹ anh hiền từ và dễ chịu. Anh có ấn tượng là bà xinh đẹp nhưng chỉ là tưởng tượng thôi vì ký ức về hình ảnh bà đã phai mờ trong tâm trí anh và giờ đây khi nghĩ đến bà, gương mặt bà chỉ còn là những nét nhạt nhòa. Nhưng bà đã cho anh tình yêu thương; anh rất chắc chắn về điều ấy và anh nhớ rõ vì đó là tình yêu duy nhất mà anh biết đến.

Trong đầu anh, những năm thơ ấu chỉ là những mảnh vụn không liền lạc. Anh biết rằng mẹ anh có làm việc, khi bà có thể làm được, để kiếm miếng ăn, nhưng cũng có khi không có gì cả. Anh không còn nhớ được mẹ anh đã làm công việc gì, anh chỉ nhớ có một thời là đã làm vũ nữ. Cả hai đã đi rất nhiều, từ Somali thuộc Pháp đến Ethiopi, trước là Addis Ababa rồi Massawa. Có hai, ba lần họ đã làm việc trên tuyến đường Djibouti - Addis Ababa.

Thoạt đầu, họ vẫn sống, dù là túng thiếu, với những kiều dân Pháp. Về sau, càng lúc càng nghèo khổ hơn, thì khu bản xứ là những nhà quen của họ. Thế rồi, năm Henri lên sáu, mẹ anh qua đời.

Sau cái chết của mẹ anh, những kỉ niệm của anh lại xáo trộn lần nữa. Trong một khoảng thời gian- khó nói được là bao lâu- anh đã sống trên hè phố, đi ăn xin để sống và đêm về ngủ ở bất kỳ xó xỉnh nào anh tìm được. Anh không bao giờ liên hệ với nhà cầm quyền; chẳng có việc gì xảy ra cho anh để phải làm thế, trong khoảng không gian anh sống, cảnh sát canh chừng anh như kẻ thù, chứ không như bạn.

Thế rồi một người Somali lớn tuổi, vẫn sống cô độc trong túp lều ở khu bản xứ đưa anh về và cho anh một chỗ nương thân. Việc sống chung kéo dài được năm năm và rồi vì những lí do nào đó, ông già này bỏ đi và Henri Duval lại một thân một mình như trước.

Lần này anh trôi dạt từ Ethiopi về Somali thuộc Anh, kiếm việc làm bất cứ chỗ nào tìm được, nhưng trong bốn năm sau đó, anh khi thì là người phụ chăn cừu, lúc đi chăn dê, rồi chèo xuồng, kéo dài cuộc sống tạm bợ từng ngày một bằng đồng lương chỉ đủ thức ăn và chỗ trọ.

Đôi khi chuyện vượt qua đường biên giới quốc gia là điều đơn giản . Có rất nhiều gia đình di chuyển cùng với trẻ con nên các viên chức ở các đồn biên phòng ít khi bận tâm đến từng đứa trẻ. Những lúc ấy anh chỉ việc tự coi mình thuộc một gia đình nào đó và cứ thế đi qua mà chẳng lính canh nào buồn lưu ý. Dần dà anh trở nên lão luyện trong chuyện này. Đến lúc trưởng thành, vóc dáng nhỏ bé của anh vẫn giúp anh khai thác lợi điểm ấy. Cho đến năm hai mươi tuổi, khi đi với dân du mục Ả rập, anh mới bị chận lại lần đầu tiên và phải quay về biên giới Somali thuộc Pháp.

Đến giây phút ấy, Duval phát giác hai sự thật. Một: những ngày len lỏi qua biên giới với những nhóm trẻ con của anh đã chấm dứt. Và thứ hai: Somali thuộc Pháp mà đến lúc ấy anh vẫn coi như quê hương mình, đã đóng cửa đối với anh . Điều thứ nhất anh đã sẵn ngờ vực; còn điều thứ hai mới là cú sốc nặng nề.

Như là định mệnh trớ trêu, anh đã phải đương đầu với một trong những điều cơ bản của xã hội văn minh: đó là, nếu không có giấy tờ - những thứ giấy tờ cực kỳ quan trọng, chí ít cũng là cái giấy khai sinh – thì con người ta không là gì cả; một cách công nhiên không tồn tại cũng không thuộc về đâu trong cõi trần gian đã phân chia từng vùng lãnh thổ này.

Nếu các ông, các bà có một lúc nào thấy vấn đề này khó chấp nhận quá, thì với Henri Duval – một kẻ thất học và buộc phải sống những năm thơ ấu như một thứ cặn bã thiếu thốn tình thương – nó lại là một vết thương lòng đau đớn. Những người du mục Ả rập tiếp tục đi, để Duval ở lại Ethiopi. Nơi mà giờ đây anh biết rằng anh không còn có quyền thuộc về bên này hay bên kia nữa và trong suốt một ngày đêm, anh ngồi co rúm trên biên giới Hadele Gubo.

 

Có một khối đá xếp nếp trơ trọi, dãi dầu mưa nắng. Trong chỗ trú đó, một chàng trai trẻ hai mươi tuổi – vẫn còn là một đứa trẻ xét về nhiều phương diện – ngồi một mình không nhúc nhích. Ngay phía trước là những bình nguyên cằn cỗi, lởm chởm đá của Somali, trong vô vị dưới ánh trăng và khô khốc giữa ánh mặt trời chói chang ban trưa. Và con đường xuyên qua bình nguyên uốn lượn quanh co như con rắn sậm màu, chính là con đường lầm bụi nâu dẫn về Djbouti – là sợi chỉ mỏng manh cuối cùng giữa Henri Duval và quá khứ của anh, giữa thời thơ ấu và tuổi trưởng thành, giữa con người anh, không một mảnh giấy lộn ngoại trừ cuộc sống hiện diện và thành phố ven biển rực ánh nắng mà những lối đi nồng mùi cá tanh tưởi và những bến tàu đẫm muối là nơi anh vẫn tưởng nơi chôn nhau cắt rún và là quê hương của mình.

Bỗng nhiên sa mạc ở phía trước trở nên mảnh đất mời gọi và quen thuộc. và như một sinh vật bị bản năng lôi cuốn về nơi sinh đẻ và tình mẫu tử, bởi anh vẫn ao ước được quay về Djbouti, bởi bây giờ nó đã vuột khỏi tầm tay như bao nhiêu điều khác đã ở ngoài tầm với và cứ như thế mãi mãi.

Rồi cơn đói và khát sau cùng cũng làm anh sực tỉnh, anh đứng dậy . Henri Duval quay mặt với xứ sở đã cấm đoán, đi về phương bắc vì anh phải đi tới một nơi nào , về phía Eritrea và Hồng Hải…

 

Chuyến đi Eritrea, vùng duyên hải phía tây Ethiopi là chuyến đi anh còn nhớ rõ. Anh cũng nhớ rằng trong chuyến hành trình này, anh đã lần đầu tiên ăn cắp một cách có phương pháp. Thoạt đầu, anh ăn cắp lương thực, nhưng chỉ khi tuyệt vọng vì không xin được gì hoặc không có việc gì làm. Anh vẫn đánh cắp lương thực khi có cơ hội, cả hàng hóa hay đồ nữ trang xoàng có thể bán được tí đỉnh. Chút ít kiếm được biến mất hầu như ngay tức khắc, nhưng luôn luôn tận đáy lòng anh vẫn là ý nghĩ dành dụm để mua được vé trên một chiếc tàu – đến một nơi nào đó, nơi anh có thể làm một người dân và bắt đầu cuộc đời trở lại.

Dần dà anh đến Massawa, một hải cảng san hô và là cửa ngõ từ Ethiopi đi Hồng Hải.

Chính ở Massawa, hành động trộm cắp của anh đã bị giáng cho một vố. Trà trộn trong một đám đông gần sạp bán cá, anh thò tay nhón một con cá, nhưng gã chủ sạp nhìn thấy và tri hô. Nhiều người trong đám đông, có cả một viên cảnh sát rượt theo và trong vài giây đôi tai trẻ thơ kinh sợ của Henri Duval đã biết thế nào là âm thanh của đám đông cuồng nộ. Anh chạy vắt giò lên cổ lôi họ theo quanh những bin-đing bằng san hô ở Massawa, qua những ngõ hẻm quanh co của khu bản xứ. Và sau cùng khi đã chạy được khá xa ra tới bến tàu, anh trốn trong những kiện hàng chờ bốc xuống tàu. Qua một khe hở, anh thấy những kẻ rượt đuổi dáo dác đi tìm, rồi bỏ cuộc và giải tán.

Nhưng sự việc đã làm anh hoảng và anh nhất quyết phải rời Ethiopi bằng bất cứ cách nào. Ở trước nơi anh đang trốn là một tàu hàng buông neo và khi màn đêm buông xuống, anh bò lên trên boong tàu, vấp phải một cái tủ nhỏ tối đen ở tầng dưới. Thế là anh lẩn vào đó. Con tàu ra khơi vào sáng hôm sau. Hai giờ sau đó anh bị phát giác và mang tới trước mặt viên thuyền trưởng.

Đây là một con tau Ý chạy bằng than già cỗi, cà rịch cà tang giữa vịnh Aden và mạn đông Địa Trung Hải.

Viên thuyền trưởng, một người Ý gầy gò đang ngồi uể oải cạy đất ở móng tay khi mà Henri Duval được dắt đến, đứng run rẩy trước mặt ông ta.

Nhiều phút qua, viên thuyền trưởng bỗng hỏi bằng tiếng Ý. Không nghe trả lời. Ông thử qua tiếng Anh, rồi Pháp, vẫn không có kết quả. Duval đã quên từ lâu vài tiếng Pháp học được ở mẹ anh, còn bây giờ ngôn ngữ anh nói là mớ tạp pí lù giữa tiếng Ả rập, Somali và Amharic, xen lẫn với những từ lạc lõng trong khoảng bảy mươi thứ tiếng của Somali và gấp đôi chừng ấy thổ âm.

Thấy là không thể nào hiểu được nhau, viên thuyền trưởng nhún vai lãnh đạm. Đi lậu đâu phải là chuyện mới lạ gì trên con tàu này và không hề bị ràng buộc bởi những điều tẩn mẩn trong luật biển, ông bèn ra lệnh cho Duval đi làm việc. Ông nhẩm tính là sẽ tống gã đi lậu này xuống hải cảng kế tiếp khi tàu ghé lại.

Tất nhiên viên thuyền trưởng không hề đoán trước được là Henri Duval, kẻ vô tổ quốc, sẽ bị các viên chức Di Trú ở bất kỳ cảng nào tàu ghé đến, cương quyết chối từ, kể cả Massawa, nơi mà con tàu quay về nhiều tháng sau đó.

Thời gian Duval ở trên tàu càng lâu, sự bực tức của viên thuyền trưởng càng tăng theo tỉ lệ tương xứng.

Cho đến mười tháng sau, ông cho gọi viên thuyền phó của mình vào bàn tính.

Và họ dự định một kế hoạch – viên thuyền phó sẽ phải giải thích việc này cho Duval qua một thông dịch viên – từ đó trở đi, cuộc sống của gã đi lậu trở nên không chịu đựng nổi, đến mức sớm muộn gì anh sẽ sung sướng mà nhảy ra khỏi tàu. Hai tháng sau đó là hai tháng anh làm việc đến kiệt lực, bị đánh đập và bị bỏ đói.

Duval nhớ rõ từng chi tiết cái đêm anh lẳng lặng lỏn xuống cầu thang con tàu Ý. Đó là ở Beirut, Liban, một quốc gia nhỏ, trái độn giữa Syria và Israel, là nơi, theo truyền thuyết, thánh George giết chết con rồng.

Anh đi như anh đã đến, trong bóng tối, và việc ra đi cũng dễ dàng vì anh chẳng có gì vướng bận, chẳng của nả gì trừ bộ đồ rách rưới anh mặc trên người. Xuống khỏi tàu rồi, anh chuồn ngay lên bến định vào thành phố. Nhưng một bóng mặc thường phục ở khoảng sáng phía trước làm anh thối chí, nhảy lùi ra sau, lẫn vào bóng tối. Thăm dò thêm, anh mới thấy bến tàu có hàng rào và được canh gác. Anh thấy mình run rẩy; anh hai mươi mốt tuổi, đang lả đi vì đói, cô đơn khủng khiếp và sợ hãi đến tuyệt vọng.

Khi anh bước đi, một cái bóng khác lù lù hiện ra. Một con tàu.

Thoạt đầu anh nghĩ mình đã trở lại chiếc tàu Ý và trong anh một xung lực nhất thời thúc anh lẻn lên boong trở lại. Nổi khốn khổ anh đã biết còn tốt hơn là nhà tù mà anh hình dung đang chờ đợi mình nếu như bị bắt. Thế rồi anh thấy đó không phải là con tàu Ý nhưng là một chiếc lớn hơn và anh phóc ngay lên boong như một con chuột đu dây. Đó là chiếc Vastervik, điều mà anh biết được hai ngày sau và đã ở cách bờ hai mươi dặm khi cơn đói lấn lướt nỗi sợ hãi và xua anh run lẩy bẩy, ra khỏi chỗ trốn.

Thuyền trưởng Sigurd Jaabeek của tàu Vastervik lại rất khác với người anh em Ý Đại Lợi kia. Một dân Nauy ăn nói chậm rãi, tóc bạc, ông là một con người cương quyết nhưng công bằng, một người tôn trọng cả lời dạy trong kinh thánh lẫn luật lệ của biển cả. Thuyền trưởng Jaabeck giải thích một cách nghiêm nghị nhưng cẩn thận với Henri Duval rằng một người đi lậu không bị buộc phải làm việc nhưng có thể tình nguyện làm mặc dù không lương. Trong bất kỳ trường hợp nào, có làm việc hay không, anh vẫn được nhận khẩu phần tương tự như thủy thủ trên tàu. Duval chọn cách làm việc.

Cũng như viên thuyền trưởng người Ý, thuyền trưởng Jaabeck hoàn toàn có ý định tống kẻ đi lậu xuống ngay hải cảng đầu tiên ông ghé lại. nhưng có điều khác là- sau khi đã không bị buộc phải nhanh nhóng loại trừ Duval- ý nghĩ đối xử tàn tệ không hề có trong ông.

Và thế là trong suốt hai mươi tháng, Henri Duval cứ trên tàu trong khi chiếc Vastervik đi qua hết nửa số các đại dương trên thế giới tìm nguồn hàng hóa. Con tàu cứ lắc lư đi theo nhịp điệu lãng du qua Địa trung hải, Đại tây dương và Thái bình dương. Họ đã đến Bắc Phi, Bắc Âu, Nam Âu, Anh quốc, Nam Mỹ, Hoa Kỳ và Canada. Và ở khắp mọi nơi, lời thỉnh cầu của Henri Duval được xuống đất liền và ở lại đều gặp một câu trả lời dứt khoát: không. Lý do, như các viên chức ở cảng phải bối rối đưa ra, luôn luôn như nhau – gã đi lậu này không có giấy tờ, không lai lịch, không tổ quốc và không có quyền.

Thế rồi, sau một thời gian, khi chiếc Vastervik đã chấp nhận sự hiện diện thường trực của Duval, thì gã đi lậu trẻ tuổi trở thành kẻ thân thuộc trong tổ ấm trên tàu.

Thủy thủ chiếc Vastervik là một hỗn hợp quốc tế gồm dân Balan, Scandinavia, Ấn Độ, một Trung Hoa, một Armania cùng một nhóm thủy thủ Anh với Stubby Gates là kẻ cầm đầu. Chính nhóm này đã chấp nhận Duval như một thành viên và làm cuộc sống của anh, nếu không được tươi vui, thì cũng dễ chịu theo điều kiện dưới tàu cho phép. Họ đã giúp anh học tiếng Anh; dù giọng anh có nặng và lối nói vụng về thì ít nhất, bằng sự kiên nhẫn ở cả hai phía, anh cũng làm người ta hiểu được mình.

Đó là một trong vài tấm lòng tử tế chân thật mà Duval biết được, và anh cũng xử sự đáp trả như một con chó con quấn quýt yêu thương với chủ nó vậy. Anh làm các công việc cá nhân cho toán thủy thủ này, đỡ chân đỡ tay cho người bồi của viên sĩ quan và chạy việc vặt trên tàu. Đổi lại họ tặng anh kẹo bánh, thuốc lá họ mua nhân những chuyến đi chơi trên bờ, đôi khi thuyền trưởng Jaabeek cũng cho anh một số tiền nhỏ và họ lại mua sắm dùm anh. Nhưng bất chấp tất cả, kẻ đi lậu này vẫn là một tù nhân và chiếc tàu Vastervik, chốn dung thân, đã trở thành nhà ngục.

Như thế là, Henri Duval, kẻ có quê hương duy nhất là biển cả, đã đến cửa ngõ Canada vào ngày áp lễ Giáng sinh.

 

6.

 

Cuộc thẩm vấn kéo dài thành hai giờ. Cừ thỉnh thoảng, Dan Orliffe lại lập lại những câu hỏi trước đó dưới một hình thức khác, tìm cách gài bẫy cho gã đi lậu trẻ tuổi phải thừa nhận hay mâu thuẫn. Nhưng dự tính này hỏng bét. Trừ việc hiểu lầm vì chữ nghĩa, nhưng việc này lại sáng tỏ khi họ tiếp tục, còn thì về cơ bản, câu chuyện không có nội dung sai khác.

Gần cuối, sau khi nghe hỏi một câu có vẻ dẫn dụ với lời lẽ cố ý mù mờ, Duval không trả lời. Thay vì thế anh nhìn xoáy vào kẻ đối diện. Anh nói, ‘ Ông lừa tôi. Ông cho là tôi nói dối.’ Và một lần nữa, chàng phóng viên nhận ra vẻ trang nghiêm tự nhiên mà anh đã ghi nhận từ đầu.

Xấu hổ vì âm mưu bị lộ, Dan Orliffe nói, ‘ Tôi chỉ muốn soát lại thôi. Tôi sẽ không lặp lại chuyên đó nữa đâu.’ Và họ đi qua việc khác.

Giờ đây, gò lưng bên cái bàn xộc xệch trong tòa soạn chật chội và ồn ào của tờ Vancouver Post, Dan trải những ghi chép của mình ra và với tay lấy một tập giấy. Vừa soạn mấy tờ giấy than, anh vừa hỏi với qua viên chủ bút, Ed Benedict, ngồi ở bàn giữa.

‘ Ed, chuyện hay lắm. Anh định cho bao nhiêu chữ đây?’

Viên chủ bút suy nghĩ. Rồi ông đáp với lại. ‘ Giới hạn trong một ngàn chữ thôi.’

Dan vừa gật đầu vừa kéo máy đánh chữ gần lại. Cũng được. Anh muốn có nhiều hơn, nhưng nếu khéo thu vén, một ngàn chữ cũng nói được khối việc.

Anh bắt đầu gõ máy chữ.

 

 

***

 

 

Chương 4

 

 OTTAWA, NGÀY ÁP LỄ GIÁNG SINH

 

 1.

 

 

Lúc 6g15 sáng ngày áp lễ Giáng sinh. Milly Freedeman bị đánh thức vì hồi chuông điện thoại dai dẳng trong căn phòng nằm trong bin-ding Tiffany tân kỳ ở Đại lộ Ottawa. Khoác vội cái áo choàng màu vàng bèo nhèo ngoài bộ pyjama lụa, đưa chân lần dò đôi giày moccasin cũ vẹt gót cô đã đá văng đi đêm hôm trước. Tìm không ra, cô thư ký riêng của Thủ tướng đành đi chân đất sang phòng khách kế cận và mở đèn.

Dù trời còn sớm và mặt còn ngái ngủ, căn phòng sáng đèn vẫn có vẻ mời mọc và đầy đủ tiện nghi như bao giờ. Tiếng lành đồn xa, Milly biết vậy, vì phòng các cô gái độc thân vẫn trông kiểu cách như những tờ tạp chí thời trang mô tả. Nhưng đó là nơi cô yêu mến được trở về mỗi chiều, mệt mỏi buông mình xuống những chiếc gối trong bộ trường kỷ bọc đệm dày – món đồ mà những người hay di chuyển thường rất ngại, khi cô mang nó về đây từ nhà cha mẹ cô ở Toronto.

Bộ trường kỷ cổ xưa đã được sửa sang lại từ dạo ấy, với sắc xanh lụa ưa thích của Milly, hai bên là hai ghế bành cô mua được trong kỳ bán đấu giá ở ngoại ô Ottawa – có hơi sờn, nhưng cực kỳ êm ái. Cô định sẽ cho bọc lại vải bông có sắc thu hai chiếc ghế này. Vải bọc sẽ ăn với màu tường và đồ gỗ sơn màu nấm ấm áp. Trong một ngày nghỉ cuối tuần, cô đã tự sơn lấy cùng với hai người bạn mà cô mời đến ăn một bữa tối qua quít rồi dụ họ giúp cô hoàn tất công việc.

Ở đầu kia phòng khách là một cái ghế xích đu cũ,cô có cảm tình với nó một cách kỳ cục bởi vì cô đã ngồi trong đó mà mơ mộng như một đứa trẻ. Bên cạnh nó, trên cái bàn uống cà phê bọc da, cô đã mua với giá đắt khủng khiếp, là máy điện thoại.

Chiếc ghế hơi lắc lư một chút khi Milly ngồi vào và cô nhắc điện thoại. Người gọi là James Howden.

Thủ tướng nói, giọng tỉnh táo, ‘ Chào Milly. Tôi yêu cầu triệu tập cuộc họp Hội đồng Quốc phòng lúc 11giờ.’ Ông không đá động gì đến cú điện thoại gọi sớm, Milly cũng không chờ đợi gì điều đó. Từ lâu cô đã quen với việc thích dậy sớm của ông chủ mình.

’11 giờ sáng nay?’ Bàn tay còn lại Milly xốc áo lên. Trong phòng trời lạnh vì có một cửa sổ cô để hơi hé ra trong đêm hôm trước.

Howden nói, ‘Đúng thế.’

Milly nói toạc ra, ‘ Sẽ có người phàn nàn đây. Đã là ngày áp lễ rồi.’

‘ Tôi không quên đâu. Nhưng việc này rất quan trọng không trì hoãn được.’

Móc điện thoại lên, cô xem lại giờ ở cái đồng hồ du lịch bọc da nhỏ để bên điện thoại và cố cưỡng lại ý muốn quay về giường ngủ tiếp. Thay vì thế cô đi khép cánh cửa để hé, rồi vào bếp làm cà phê. Sau đó cô trở lại phòng khách bật radio xách tay. Cà phê bắt đầu chảy nhanh khi bản tin 6giờ30 trên radio phát đi lời tuyên bố chính thức của Thủ tướng về cuộc hội đàm sắp tới ở Washington.

Nửa giờ sau, vẫn còn mặc pyjama, nhưng lần này có thêm đôi giày moccasin cũ dưới chân, cô bắt đầu gọi cho năm Ủy viên Hội đồng tại nhà riêng của họ.

Bộ trưởng Ngoại giao là người đầu tiên. Arthur Lexington vui vẻ trả lời, ‘ Milly, xong rồi. Buổi họp nào tôi cũng ngồi suốt đêm, có gì thêm bớt nữa nào? Nhưng mà, cô đã nghe lời tuyên bố rồi chứ?’

Milly nói, ‘ Rồi, vừa mới phát trên radio?’

‘ Tưởng tượng một chuyến đi Washington chứ?’

Milly nói, ‘ Lần nào đi cũng chỉ chúi đầu vào máy đánh chữ.’

Lexington nói, ‘ Cô làm thư ký cho tôi mới phải. Không bao giờ cầm máy đánh chữ. Tất cả lời tuyên bố của tôi nằm hết trong mấy vỏ bao thuốc lá.’

Milly nói, ‘ Thôi chả ham được voi đòi tiên.’

Ông Bộ trưởng Ngoại giao cố nín cười, ‘ Ấy là vì tôi chẳng bao giờ lo cả. Tôi bắt đầu bằng cách giả thiết là không có điều gì tôi nói ra làm cho tình hình tồi tệ đi.’ Cô cười.

Lexington lại nói,’ Giờ tôi phải đi đây. Đây là dịp may mắn cho nhà tôi – tôi đang ăn sáng với lũ con tôi. Chúng muốn xem tôi có thay đổi nhiều không kể từ lần tôi có ở nhà sau cùng.’

Cô mỉm cười tự hỏi bà nội trợ nhà Lexington sáng nay cho ăn món gì. Chắc cũng là món hổ lốn. Susan Lexington, vốn là thư ký riêng của chồng nhiều năm. Tuy là một bà nội trợ kém cỏi nhưng gia đình lúc nào cũng đầm ấm khi ông Bộ trưởng có mặt ở nhà tại Ottawa. Nghĩ đến Susan, Milly lại nhớ đến một điều cô đã từng nghe kể: những cô thư ký khác nhau đi theo những con đường khác nhau. Có người dễ bảo và đi lấy chồng, có người già đi và khó chịu. Cô nghĩ, vậy ra ở mỗi ngã đường mình cũng được nửa điểm. Mình chưa già cũng chưa có chồng.

Có lẽ cô cũng đã lập gia đình nếu như cuộc đời cô ít dính líu đến cuộc đời James McCullum Howden… Khoảng mười hai năm trước khi Howden còn là một Nghị sĩ ngồi ở chiếu sau, dù là một khuôn mặt nổi bật và mạnh mẽ trong đảng thì Milly, cô thư ký trẻ trung làm việc bán thời gian đã nhắm mắt điên cuồng lao vào tình yêu ông tới mức cô chỉ mong muốn được gặp nhau mỗi ngày trong niềm vui thể xác. Lúc ấy cô mới đôi mươi, lần đầu tiên xa quê nhà Toronto và Ottawa đã cho cô thấy một thế giới hấp dẫn và đầy sinh lực.

Còn mạnh mẽ hơn nữa vào cái đêm James Howden, đoán trước được cảm giác của cô. Đến tận bây giờ, mười năm sau, cô vẫn còn nhớ. Buổi xế chiều, Viện Dân biểu ngừng họp để ăn tối; cô đang sắp xếp thư từ trong văn phòng nghị sĩ của Howden thì ông lặng lẽ đi vào. Không nói một lời, ông khóa cửa lại, ôm lấy vai Milly, quay mặt cô về phía ông. Cả hai đều biết, viên Nghị sĩ chung văn phòng với Howden đã đi khỏi Ottawa. Ông hôn cô và cô nồng nàn hôn trả không chút dè dặt hay đóng kịch. Sự tỉnh thức của cô, nổ bùng nổi đam mê, không hề một chút ý lực kháng cự làm ngạc nhiên chính cô. Đó là sự khởi đầu quân bình về niềm vui mà không một phần đời nào của Milly, trước đó hay về sau, có thể sánh được. Ngày lại ngày, tuần lại tuần, họ thu xếp những cuộc gặp gỡ bí mật, bịa ra những lời cáo lỗi, giành giật từng giây phút… Đôi khi, mối tình của họ diễn ra như một trò chơi tài tình. Lại có lúc, cuộc đời và tình yêu như được nhào nặn ra cho họ thưởng thức.

Sự tôn sùng của Milly đối với James Howden vừa sâu xa vừa khốc liệt. Nhưng cô lại không biết chắc được tình cảm của ông đối với cô dẫu rằng ông vẫn thường nói tình cảm giữa hai người dành cho nhau là ngang bằng. Cô không hề ngờ vực và chấp nhận một cách biết ơn tất cả những trường hợp ngay- bây – giờ - và- ở - đây. Cô biết sớm muộn gì, cũng sẽ tới lúc không còn đường quay lại hoặc là cuộc hôn nhân của Howden hoặc là mối tình giữa James Howden và cô. Cô cố hi vọng mơ hồ, nhưng rất ít ảo tưởng về hồi kết cuộc.

Và rồi, tới một lúc – gần một năm sau khi mối tình của họ bắt đầu, hi vọng trở nên mạnh mẽ hơn. Lúc đó là gần đến kỳ đại hội để bầu chọn lãnh tụ đảng và một đêm nọ, James Howden nói với cô, ‘ Anh đang nghĩ đến việc từ bỏ chính trị và đề nghị ly dị với Margaret.’

Sau khi đã hết xúc động, Milly mới hỏi – kết quả cuộc bầu chọn sẽ như thế nào giữa Howden và Harvey Warrender, về chức lãnh tụ đảng mà cả hai đều đang tranh dành. Ông nói và vuốt cái mũi diều hâu một cách tư lự, bộ mặt nằng nặng của ông tối sầm, ‘ Phải rồi . Anh vừa nghĩ đến điều đó. Nếu Harvey thắng, anh sẽ thoát được.’

Cô nín thở theo dõi cuộc hội nghị, không dám nghĩ đến điều cô mong muốn nhất: chiến thắng của Warrender. Vì nếu Warrender thắng, tương lai của cô sẽ được bảo đảm. Nhưng nếu Warrender thua và James Howden thắng, Milly ý thức được rằng mối tình của cô đương nhiên phải chấm dứt. Đòi tư của một lãnh tụ đảng nhiên hậu sẽ là Thủ Tướng không được có vết tì ố nào và phải hoàn toàn không có tai tiếng.

Cuối ngày đầu tiên của đại hội, phần thắng nghiêng về Warrender. Nhưng rồi, vì một lý do nào đó mà Milly không bao giờ hiểu được, Harvey Warrender rút lui và Howden đã thắng.

Một tuần sau, trong văn phòng nghị sĩ nơi nó đã bắt đầu, bản tình ca giữa hai người kết thúc.

James Howden đã nói, ‘ Milly thân yêu, phải như thế này thôi. Không còn cách nào khác.’

Milly rất muốn trả lời rằng còn có một cách nữa, nhưng cô biết chỉ mất thời gian vô ích. James Howden đã bước lên đài danh vọng. Ông đã xúc động biết bao kể từ khi được bầu vào chức lãnh tụ đảng và cho dù là nỗi xúc động đó có thật, nó vẫn che dấu một cảm giác bất an như thể phải làm quang quẻ quá khứ cho tương lai rộng chân bước vào.

Ông đã hỏi, ‘ Milly, em ở lại chứ?’

Cô nói, ‘ Không. Em nghĩ là không thể.’

Ông gật đầu ra vẻ thông cảm. ‘ Anh không thể khiển trách em được. Nếu em có lúc nào thay đổi ý kiến…’

Cô nói, ‘ Không đâu’. Nhưng sáu tháng sau cô lại thay đổi ý kiến. Sau một chuyến nghĩ phép ở Bermuda và thêm một công việc khác làm cô chán ngán, cô quay về và đã ở lại. Việc trở về thoạt đầu rất khó khăn và cảm giác sẽ - là – gì cứ ám ảnh cô. Nhưng nỗi buồn phiền và những giọt nước mắt của riêng cô đã không bao giờ chua chát để thành sự cay đắng và sau cùng tình yêu đã hóa ra lòng trung thành độ lượng.

Đôi lúc Milly tự hỏi Margaret Howden có biết đến hầu trọn một năm đó và những cường độ cảm giác của cô thư ký riêng của chồng bà không; đàn bà vẫn có trực giác về loại sự việc mà đàn ông không có đó. Nhưng dẫu có biết đi nữa, Margaret đã khôn ngoan không hé răng, trong lúc ấy hay về sau.

Còn bây giờ tâm trí cô quay về với hiện tại, Milly gọi tiếp cú điện thoại thứ hai. Đó là Stuart Cawston; bà vợ ông nửa thức nửa ngủ thông báo rằng ông Bộ trưởng Tài chánh đang đi tắm. Milly chuyển đạt nội dung cho bà, bà lại chuyển tiếp, và cô nghe Stu cợt kêu to, ‘ Bảo Milly tôi sẽ có mặt.’

Adrian Nesbitson, Bộ trưởng Quốc phòng, là người kế tiếp trong danh sách của cô, cô phải chờ vài phút mới nghe tiếng chân lệt sệt của ông đến chỗ điện thoại. Khi cô báo cho ông về buổi họp, ông nói buông xuôi, ‘ Cô Freedeman, nếu đó là điều xếp cần, tôi sẽ phải có mặt. Tệ quá, không chờ được đến qua lễ.’

Milly ngỏ vài câu thông cảm, dù cô biết rằng sự có mặt hay vắng mặt của Adrian Nesbitson chẳng ảnh hưởng mấy tới bất kỳ quyết định nào trong buổi họp sáng nay. Điều cô biết mà Nesbitson không biết là James Howden đã dự liệu vài thay đổi trong Nội các vào năm mới và trong số những người sẽ ra đi có ông Bộ trưởng Quốc phòng hiện thời.

Milly nghĩ, thật là lạ khi nhớ rằng tướng Nesbitson từng là một vị anh hùng của quốc gia – một cựu chiến binh huyền thoại, ngực đầy huy chương thế chiến thứ hai, nổi danh vì tính táo bạo, nếu không tưởng tượng quá đáng. Chính Adrian Nesbitson đã dẫn đầu một trận đột kích bằng thiết giáp vào đội quân chiến xa Panzer lừng danh của quân Đức, đứng trên chiếc xe jeep mui trần, chiếc kèn túi vắt vẻo, tấu nhạc trong ghế ở băng sau. Và cũng như bao nhiêu viên tướng đã được yêu mến, Nesbitson cũng được những người phục vụ dưới quyền ông yêu mến.

Nhưng sau chiến tranh, Nesbitson, phó thường dân, hẳn đã không đạt được một cái gì nếu không có James Howden, người đang cần một nhân vật nổi danh nhưng kém về điều hành trong khe hở ở Bộ Quốc phòng. Mục đích của Howden là có một ông Bộ trưởng Quốc phòng vững vàng bề ngoài nhưng thực ra ông mới là người nắm hết công việc bên trong.

Khía cạnh này của kế hoạch được thực hiện rất hoàn hảo – đôi khi quá hoàn hảo là khác. Adrian Nesbitson, một quân nhân can trường, đã chứng tỏ đầy đủ năng lực của ông trong lãnh vực tên lửa cùng sức mạnh hạt nhân và cũng chỉ ước muốn được thực hiện chính xác các mệnh lệnh mà không muốn lý luận lôi thôi. Không may, ông lại thường không hiểu rõ được thâm ý các nhân viên của mình và thế là, trước báo chí và dư luận , ông đành mang tiếng là một viên tướng mệt mỏi và nhiễu sự.

Nói chuyện với ông già này xong, Milly cảm thấy xuống tinh thần, cô châm thêm cà phê rồi đi vào phòng tắm rửa mặt cho tỉnh táo trước khi gọi nốt hai người còn lại. Cô nhìn bóng mình trong tấm kiếng dài trong phòng tắm dưới ánh đèn huỳnh quanh sáng choang. Cô thấy một người đàn bà cao dong dỏng, hấp dẫn, vẫn còn trẻ - nếu các bạn có thể miễn thứ cho từ này -, và cô nhận định hơi hippy một chút. Nhưng cô có thân hình đẹp, gương mặt có những nét chắc khỏe và thanh tú, gò má cao kiểu cổ điển, lông mày rậm mà khi nào nghĩ đến nó, cô dùng nhíp nhổ bớt. Đôi mắt to, sáng, màu xanh xám, choán gần hết khuôn mặt. Mũi thẳng, đầu mũi rộng, nằm trên đôi môi dày, đa tình. Tóc nâu đen cắt rất ngắn: Milly ngắm nghía tự hỏi đã đến lúc cắt tóc lại chưa. Cô ghét thẩm mỹ viện và thích tự gội đầu chải tóc hơn. Muốn vậy, phải cắt cho đẹp và thường xuyên.

Tóc ngắn có lợi lớn – bạn có thể lòn ngón tay vào, Milly thường làm vậy. James Howden cũng thích làm vậy cũng như ông thích cái áo khoác vàng ố mà cô vẫn mặc. Đã đến lần thứ hai mươi cô nhất quyết phải quên nó đi.

Quay lại phòng khách, cô gọi nốt hai cú điện thoại. Một cho Lucien Perrault, Bộ trưởng Quân cụ, ông này rõ ra là bực mình bị gọi dậy sớm thế và Milly trả đũa rằng cô có thể bỏ qua ông. Sau đó cô hơi ân hận khi

nhớ rằng có ai đó đã mô tả quyền được bất mãn vào buổi sáng sớm là quyền tự do thứ sáu của con người, với lại hầu như lúc nào Perrault - lãnh tụ dân Canada gốc Pháp – cũng đối xử với cô rất lịch sự.

Cú điện thoại cuối cùng gọi cho Douglas Martening, Thư ký Hội đồng Tư vấn, một nhà lập pháp đầy tài năng trong tất cả các phiên họp nội các. Với Martening, Milly tỏ ra kính trọng hơn những người khác. Các Bộ trưởng có thể đến rồi đi, nhưng còn thư ký hội đồng tư vấn, khi tại chức, là một công chức quan trọng nhất ở Ottawa. Ông có tiếng là sống xa cách mọi người và lần nào Milly nói chuyện với ông cũng có ấn tượng là không tự ý thức được mình. Nhưng hôm nay, trái lệ thường, ông lại nhiều lời một cách buồn phiền.

‘ Tôi nghĩ sẽ là một cuộc họp dài, không chừng kéo luôn qua ngày lễ Giáng sinh.’

Milly nói, ‘ Thưa, tôi cũng không ngạc nhiên đâu.’ Rồi thăm dò, ‘ Nhưng nếu có thể là vậy, tôi sẽ cho đặt sandwich gà.’

Martening càu nhàu, rồi tiếp, ‘ Cô Freedeman , tôi không cần sandwich nhưng là một cái gì đấy để thỉnh thoảng người ta thấy ấm cúng hơn như ở nhà.’

Milly nghĩ: sự tỉnh ngộ cũng hay lây sao? Có thể nào ngài Martening vĩ đại này cũng sắp gia nhập vào thành phần các công chức cao cấp đã rời bỏ chính quyền để tìm việc làm bên kỹ nghệ được trả lương cao hơn?

Câu hỏi làm cô tự nghĩ đến mình. Có phải đây là thời điểm để ra đi; thời gian để thay đổi trước khi quá trễ?

Cô vẫn còn thắc mắc bốn giờ đồng hồ sau đó khi các thành viên trong Hội đồng Quốc phòng bắt đầu tập trung ở văn phòng Thủ tướng trên đồi Quốc hội. Mặc bộ đồ xám cắt rất khéo với áo blouse trắng, Milly đưa họ vào.

Tướng Nesbitson là người đến sau cùng. Trán hói, mặt phệ, áo choàng dày và khăn quàng kín cổ. Giúp ông cởi khăn, áo, Milly xúc động khi thấy ông già này đã suy sụp đến thế nào và rồi, như để xác định thêm, ông bỗng ho một tràng vào chiếc khăn tay.

Milly rót ít nước đá cho ông. Người chiến binh già nhấp từng ngụm, gật đầu biết ơn. Nhưng rồi lại ho, ông thở dốc, ‘ Xin lỗi – chứng sổ mũi quái quỷ này.Tôi cứ bị khi phải chịu trận mùa đông ở Ottawa. Thường phải đi nghỉ đông ở miền nam. Giờ lại có bao nhiêu là chuyện quan trọng, không thoát đi được.’

Milly nghĩ,’ Năm tới, may ra.’

‘ Adrian, chúc Giáng sinh vui vẻ,’ Stuart Cawston cũng nhập bọn, bộ mặt xấu xí đáng yêu của ông vẫn tươi tỉnh như thường lệ , sáng như ngọn đèn.

Từ sau lưng ông, có tiếng Lucien Perrault. ‘ Một điều như thế đáng ao ước lắm, còn tiền thuế trong đó thì chọc thủng linh hồn chúng ta như lưỡi dao găm.’ Đẹp trai và phóng đãng, tóc đen quăn bù xù, râu ria lởm chởm, đôi mắt hóm hỉnh, Perrault nói trôi chảy cả tiếng Anh và tiếng Pháp. Đôi khi – chứ không phải bây giờ - dáng dấp lộ vẻ kiêu ngạo, làm nhớ đến dòng dõi quý tộc của ông. Ba mươi tám tuổi, thành viên trẻ nhất trong Nội các, ảnh hưởng của ông thực sự mạnh hơn rất nhiều chức vụ tương đối thấp mà ông đang nắm giữ. Nhưng Bộ Quân cụ do chính Perrault chọn và bởi vì nó là một trong ba bộ bảo trợ ( những bộ kia, là Giao thông Vận tải và Công trình Công cộng); nghĩa là bảo đảm cho những hợp đồng bạc triệu đều rơi vào tay những nhà ủng hộ tài chánh cho đảng thế nên ảnh hưởng của ông trong thứ bậc của đảng rất đáng kể.

Ông Bộ trưởng Tài chánh phụ họa, ‘ Lucien, anh đâu có để linh hồn của anh gần trương mục ngân hàng. Trong trường hợp nào, tôi cũng là ông già Noel của các anh. Anh với anh Adrian đây là những người mua đồ chơi đắt tiền nhất.’

Lucien Perrault nói, ‘ Nhưng chúng nổ thì kêu khiếp lắm. Hơn nũa , ông bạn ơi, Bộ Quân cụ chúng tôi tạo ra nhiều việc làm, đem lại nhiều tiền thuế hơn cho ông.’

Cawston nói, ‘ Nghe có giọng lý thuyết kinh tế ở đâu đó. Ấy mà quá tệ, tôi chẳng bao giờ hiểu hết.

Máy liên lạc nội bộ trong phòng reo và Milly trả lời. Giọng rổn rảng như chuông của James Howden vang lên, ‘ Cuộc họp sẽ diễn ra trong phòng Ủy ban Tư vấn. Tôi sẽ đến đó trong chốc lát nữa.’

Milly thấy ông Bộ trưởng Tài chánh hơi nhíu mày. Hầu hết những buổi hội họp chính trị của các ủy ban bên cạnh những buổi họp của toàn thể Nội các được tổ chức một cách chính thức trong văn phòng Thủ tướng. Nhưng họ vẫn tuân lời và xếp hàng đi vào hành lang dẫn đến phòng Ủy ban Tư vấn.

Lúc Milly đóng cửa văn phòng của cô lại sau lưng Perrault, người cuối cùng rời đi, chuông Bourbon trên tháp Hòa bình điểm mười một giờ.

Không như lệ thường, cô đang tự hỏi phải làm gì đây. Có quá nhiều việc chồng chất, nhưng vào Ngày Áp Lễ, cô ghét phải bắt đầu những việc gì mới. Tất cà những việc trong dịp lễ này – những bức diện chúc mừng Giáng sinh cho Nữ hoàng, cho các Thủ tướng trong khối Thịnh vượng chung và những Nguyên thủ các quốc gia thân hữu – đã chuẩn bị xong và đánh máy ngày hôm qua rồi, chờ hôm nay sẽ gởi đi sớm. Cô quyết định, còn gì khác chờ qua lễ sẽ làm.

Đôi bông tai làm cô khó chịu và cô cởi nó ra. Nó bằng ngọc trai tròn nhỏ như hột nút. Cô chưa bao giờ thích đồ nữ trang và nó cũng chẳng làm được gì cho cô. Có một điều cô biết – dù có nữ trang hay không – cô vẫn quyến rũ đối với đàn ông, cô cũng không bao giờ biết rõ tại sao…

Điện thoại trên bàn reo và cô trả lời. Đó là Brian Richardson.

Viên Giám đốc Nhân sự nói, ‘ Milly, cuộc họp quốc phòng bắt đầu chưa?’

‘ Họ vừa vào.’

Richardson kêu lên như hụt hơi, như thể ông đang vội, ‘ Trời đất ơi!’ Rồi đột ngột ông hỏi, ‘ Xếp có nói gì với cô về vụ cãi vã tối qua chưa?’

‘ Cãi vã gì?’

‘ Hẳn là ông ta không nói rồi. Có đấm đá nhau thực sự ở dinh Toàn quyền. Harvey Warrender đã châm ngòi thùng thuốc nổ của ông ta rồi.. Tôi nghe đâu ông ta say quá.’

Xúc động Milly nói, ‘ Ở dinh Toàn quyền à? Tại buổi tiếp tân sao?’

‘ Thiên hạ đồn vậy.’

‘ Nhưng sao lại ông Warrender?’

Richardson thú nhận, ‘ Tôi cũng đang thắc mắc đây. Tôi thì nghĩ là vì chuyện tôi đã nói hôm trước.’

‘ Chuyện gì?’

‘ Chuyện nhập cư. Bộ của Warrender đã bắt chúng ta phải chịu áp lực vừa nặng vừa thối. Tôi đã yêu cầu xếp phải ra tay bằng pháp luật đi thôi.’

Milly mỉm cười, ‘ Hay là xếp ra tay quá nặng.’

‘ Em bé, không phải chuyện đùa đâu. Chuyện gây gỗ giữa các Bộ trưởng ảnh hưởng không hay cho việc bầu cử. Tốt hơn tôi phải nói với xếp ngay khi ông ấy rảnh. Còn một việc nữa, cô báo luôn cho ông ấy biết : trừ phi Harvey Warrender thò tay ra cho nhanh, chúng ta đang phải đương đầu với vụ nhập cư rắc rối ở bờ biển miền Tây. Tôi biết có nhiều tiếng rọt rẹt la ó đây, nhưng vụ này cũng rất quan trọng.’

‘ Vụ rắc rối gì thế?’

Richardson nói, ‘ Tôi nhận được một cú điện thoại do người của tôi ở ngoài đó báo sáng nay. Hình như tờ Vancouver Post làm rùm beng lên câu chuyện về một tên nhập cư nhất quyết cho rằng y bị Bộ Di trú đối xử tệ hại. Người của tôi nói thằng ký giả trời đánh nào đó than khóc sướt mướt suốt cả một trang. Đó chính là sự vụ tôi đang thông báo cho từng người.’

‘ Còn hắn thì xử sự công bằng sao – gã đi lậu ấy?’

 

Giọng ông Giám dốc Nhân sự lanh lảnh trong ống nghe. ‘ Lạy Chúa, ai trông nom cho? Điều tôi cần với thằng đó là ngưng hết tin tức đi. Nếu cách duy nhất là xếp hồ sơ lại để cho thằng chó chết đó vào, nghĩa là chúng ta chấp nhận nó và tạo ra tiền lệ.’

Milly nói, ‘ Ôi trời, ông đang cáu đấy.’

Richardson quát lại, ‘ Nếu có bực là vì nhiều khi tôi quá sức chán ngán những thằng nhà quê ngu xuẩn như Warrender, những thằng quậy đống phân chính trị lên rồi bắt tôi dọn dẹp.’

Milly nhỏ nhẹ nói, ‘ Không phải đó là một ẩn dụ hỗn tạp chứ, ngoài sự thô tục ra?’ Cô đã tìm thấy một khía cạnh thô lậu trong giọng lưỡi của Brian Richardson và nếu điểm này càng rõ ràng hơn sau cái vẻ ngọt ngào chuyên nghiệp và những lời sáo rỗng của hầu hết những chính trị gia cô gặp. Milly nghĩ, có lẽ chính vì điều này làm cô, về sau này, mỗi khi nghĩ đến Richardson lại thấy ấm lòng hơn, hơn cả ý định thực của cô nữa.

Cảm giác này đã có từ sáu tháng trước khi viên Giám đốc Nhân sự bắt đầu mời cô đi chơi. Thoạt đầu, lưỡng lự không biết mình có thích người ta hay không, Milly chấp nhận mà không tò mò. Nhưng về sau sự tò mò trở thành sống động thì vào một buổi chiều khoảng một tháng trước, nó đã kết thúc bằng sự lôi cuốn của thể xác.

Trong chốc lát cô ngồi lại bên bàn, một tay sờ vào điện thoại như sợi chỉ nối liền vẫn còn đó. Rồi mãi suy nghĩ lan man, cô nhìn lên khung cửa sổ qua sân trước tòa bin-đing quốc hội.

Vì cô đến sớm, trời còn tối và bắt đầu có tuyết rơi. Những bông tuyết dày đặc phủ trắng xóa cả thủ đô. Từ cửa sổ, cô nhìn thấy phần trung tâm : tháp Hòa bình, gầy ngoẵng và kỳ cục nổi trong bầu trời xám như chì, vượt trội lên tòa nhà Hạ và Thượng nghị viện, những cái tháp gô tích vuông ở khu đông và phía sau, tòa nhà Liên bang, sừng sững như tòa thành vĩ đại và u tối; câu lạc bộ Rideau kề vai với tòa Đại sứ Mỹ bằng sa thạch trắng và đường Wellington ở phía trước, với dòng xe cộ trên đó, vẫn nghẽn tắc – như bao giờ. Milly nghĩ, quang cảnh xám xịt và khắc nghiệt này là đặc trưng cho khí hậu của Canada. Và bây giờ trong bộ đồ mùa đông, những đường nét cứng ngắc và góc cạnh của nó nhòe ra thành vẻ mềm mại. Các nhà khí tượng nói đúng thật, Ottawa đang ở trong một Giáng sinh trắng.

Đôi bông tai vẫn làm cô đau. Lần thứ hai, cô cởi nó ra.

 

2.

 

 Vẻ mặt nghiêm trọng, James Howden bước vào phòng Ủy ban Tư vấn, trần cao, trải thảm màu nâu xám. Những người khác – Cawston, Nesbitson, Perrault và Martening, đã ngồi gần đầu chiếc bàn lớn hình thuẫn với hai mươi bốn cái ghế bằng gỗ sồi chạm, bọc da đỏ, chứng nhân cho những quyết định quan trọng nhất ảnh hưởng đến lịch sử Canada từ thời Liên bang. Về một bên, ở một chiếc bàn nhỏ hơn, một tốc ký viên cũng đã có mặt, một người đàn ông nhỏ bé, tầm thường, đeo kính kẹp mũi, cuốn sổ đã mở ra và một hàng bút chì đã chuốt nhọn.

Khi Thủ tướng đến gần, cả năm người cùng chuẩn bị đứng lên, nhưng Thủ tướng vẫy tay ra hiệu ngồi xuống, ông bước lại chiếc ghế có lưng tựa cao, giống như ngai vàng ở đầu bàn. Ông nói, ‘ Cứ hút thuốc thoải mái’. Rối đẩy lùi ghế ra, ông giữ tư thế đứng và một khoảnh khắc im lặng. Khi ông mở lời, giọng ông là giọng của công việc.

‘ Thưa quí vị, tôi ra lệnh tổ chức cuộc họp trong phòng này vì một lý do; để nhớ lại lời thề giữ bí mật tất cả những gì các ông biết khi trở thành Ủy viên Tư vấn. Những gì được nói ở đây là cực kỳ quan trọng và phải giữ bí mật cho đến thời điểm thuận tiện, cả với các đồng nghiệp thân cận nhất của chúng ta.’ James Howden ngừng lại, liếc nhìn viên thư ký chính thức. ‘ Tôi nghĩ có lẽ tốt nhất là loại bỏ cả việc tốc ký.’

‘ Xin lỗi, thưa Thủ tướng,’ Đó là Douglas Martening, bộ mặt cú vọ trí thức sau cặp kính gọng vàng. Vẫn là cách nói của Thư ký Ủy ban Tư vấn, tôn trọng nhưng rõ ràng, ‘ Tôi nghĩ có lẽ tốt hơn ta nên ghi biên bản. Nó tránh được sự bất tường về sau là chính ai nói ra cái gì.’

Những bộ mặt ở giữa bàn quay về viên tốc ký, đang cẩn thận ghi lại cuộc thảo luận về sự hiện diện của ông. Martening thêm, ‘Các biên bản sẽ được giữ cẩn mật, còn ông McQuillan như các ông biết đấy, đã được tin cậy với bao nhiêu chuyện bí mật trong quá khứ.’

James Howden trả lời một cách chân tình trước sự hiện diện công khai của viên tốc ký, ‘ Phải, đúng thế. Ông McQuillan là người bạn cũ.’ Hơi đỏ mặt, đối tượng cuộc trao đổi của họ nhìn lên bắt gặp ánh mắt của viên Thủ tướng.

Howden công nhận,’ Tốt lắm. Buổi họp sẽ được ghi lại, nhưng xét theo trường hợp này tôi buộc phải nhắc cho ông thư ký việc áp dụng luật Bảo vệ Bí mật Quốc gia. Ông McQuillan, tôi cho rằng ông có biết đạo luật này phải không ?’

‘ Thưa Ngài, vâng.’ Viên tốc ký ý tứ ghi lại cả câu hỏi và câu trả lời của ông.

Vừa liếc nhìn từng người, Howden vừa tập trung tư tưởng . Việc chuẩn bị đêm qua đã cho ông thấy rõ diễn biến từng giai đoạn ông phải đi theo trước cuộc họp của Washington. Một điều quan trọng phải sớm đạt được là thuyết phục các thành viên Nội các nghe theo ý ông và đó là lý do ông cho họp Ủy ban này trước. Nếu ông đạt được sự đồng ý ở đây, ông sẽ có được sự ủng hộ vững chắc gây ảnh hưởng tới các Bộ trưởng còn lại.

James Hoden hy vọng rằng năm người đang đối diện ông sẽ cùng chia sẻ quan điểm với ông và thấu rõ được tình hình biến chuyển. Sẽ là thảm họa nếu những sự cãi vã của các bộ óc kém sáng suốt hơn ông gây ra sự trì hoãn không cần thiết.

Thủ tướng nói, ‘ Không còn nghi ngờ gì nữa về ý định tức thời của Nga Sô. Nếu còn chút ngờ vực nào thì các biến cố trong những tháng qua chắc chắn đã làm tiêu tan hết. Khối liên minh giữa điện Kremlin và Nhật trong tuần qua; còn trước đó những vụ quấy rối của Cộng sản ở Ấn Độ, Ai Cập và hiện nay ở các quốc gia lệ thuộc; những sự nhượng bộ của chúng ta ở Berlin; trục Mạc Tư Khoa – Bắc Kinh và sự de dọa của nó đến khối Úc – Á châu; sự gia tăng các vị trí tên lửa nhắm vào Bắc Mỹ. Tất cả những điều này chỉ có một lời giải . Kế hoạch thống trị thế giới của Sô Viết đang đạt tới cực điểm, không phải trong 50 hay 20 năm, như chúng ta đã giả thiết một cách dễ dãi, mà ngay trong thế hệ chúng ta và ngay thập kỷ này.

‘Tất nhiên Nga Sô muốn chiến thắng mà không cần đến chiến tranh. Nhưng cũng đơn giản như thế, canh bạc chiến tranh sẽ xảy ra nếu phương tây vẫn trụ vững và mục tiêu của điện Kremlin không còn cách nào đạt tới.’

Có tiếng thì thào đồng ý một cách do dự. Ông nói tiếp, ‘ Chiến lược của Nga Sô là chưa bao giờ sợ tổn thất. Dĩ nhiên, có nhiều người – ở đất nước này và những nước khác- sẽ còn tiếp tục hi vọng , như đã từng hi vọng rằng Hitler sẽ ngừng nghiền nát châu Âu. Tôi không phê bình gì sự hi vọng đó, đó là một tình cảm cần được trìu mến. Nhưng ở đây giữa chúng ta, chúng ta không đủ khả năng chuốc lấy sự xa xỉ ấy và ta phải hoạch định một cách rõ ràng, kế hoạch để bảo vệ sự sống còn của chính chúng ta.’

Khi đang nói James Howden nhớ lại những lời của ông với Margaret đêm hôm trước. Ông đã nói gì? Sống còn là điều giá trị bởi vì sống nghĩa là tồn tại và tồn tại là một cuộc phiêu lưu. Ông hi vọng nó sẽ là sự thực, trong tương lai cũng như trong hiện tại.

Ông tiếp, ‘ Điều tôi vừa nói, dĩ nhiên không phải là tin tức. Cũng không phải là tin tức xét dưới mức độ nào đó là sự phòng vệ của chúng ta buộc phải liên kết với Hoa Kỳ. Còn cái sẽ là tin tức ấy là trong 48 giờ vừa qua, Tổng thống Mỹ đã trực tiếp đề nghị với tôi một biện pháp liên kết rất khó thỏa thuận như cái tính kịnh của nó vậy.

Chung quanh bàn họp, người ta lập tức quan tâm ngay.

Howden nói, một cách từ tốn, ‘ Trước khi tôi thông báo với các ông nội dung đề nghị này, có vài điểm cơ bản tôi muốn được bảo đảm.’ Ông quay sang viên Bộ trưởng Ngoại giao, ‘ Arthur, một thời gian ngắn trước khi vào đây, tôi có yêu cầu ông lượng định tình hình thế giới. Tôi muốn ông lập lại câu trả lời.’

‘ Thưa Thủ tướng. Được rồi.’ Arthur Lexington để xuống bàn cái hộp quẹt ông đang lật qua lật lại trên tay . Bộ mặt ngộ nghĩnh trở nên nghiêm trang khác thường. Quay nhìn bên phải rồi bên trái, ông nói giọng đều đều, ‘ Theo ý tôi, sự căng thẳng trên thế giới vào thời điểm hiện tại còn nghiêm trọng hơn và nguy hiểm hơn bất kỳ thời gian nào kể từ năm 1939.’

Những lời rõ ràng và bình tĩnh này đã mài sắc khía cạnh căng thẳng. Lucien Perrault khẽ khàng nói, ‘ Sự việc có thật tồi tệ đến thế không?’

Lexington trả lời, ‘ Có đấy. Tôi cho là như thế. Tôi đồng ý là khó chấp nhận, vì chúng ta bị ngồi thăng bằng trên dây lâu quá rồi đến nỗi ta quen với khủng hoảng như là chuyện thường ngày. Ta nghĩ ta phải đi sát với nó ngay từ bây giờ.’

Stuart Cawston nói một cách bi quan, ‘ Năm mươi năm trước mọi sự hẳn đã dễ dàng hơn. Ít nhất thì sự đe dọa của chiến tranh cũng được ngắt ra từng khoảng thời gian vừa đủ.’ Giọng mệt mỏi của Lexington , ‘ Phải. tôi cho là vậy.’

‘ Thế thì một cuộc chiến mới…’ Đó là câu hỏi của Perrault. Ông bỏ lửng câu.

Arthur Lexington nói, ‘ Ý riêng của tôi là bất chấp tình trạng hiện tại, chiến tranh sẽ không xảy ra trong vòng một năm. Có thể lâu hơn. Tất nhiên, để đề phòng, tôi đã thông báo cho các viên đại sứ phải sẵn sàng để hủy hồ sơ.’

Cawston nói, ‘ Đó là kiểu chiến tranh cổ điển. Với những cái gì gì về ngoại giao của ông ấy.’ Và ông lấy thuốc nhồi vào ống píp.

Lexington nhún vai. Ông cười gượng, ‘ Có lẽ.’

Trong một khoảng thời gian có tính toán, James Howden đã nới lỏng bớt sự chi phối của ông lên nhóm người này. Bây giờ, nếu kềm cương, ông sẽ tóm lại được.

Thủ tướng nói một cách cương quyết. ‘ Quan điểm của tôi cũng tương tự như Arthur. Cũng tương tự vì tôi đã ra lệnh trấn đóng từng phần ngay tức khắc các cơ quan trọng yếu của chính phủ. Bộ của các ông sẽ nhận thông báo mật về vấn đề này trong vài ngày tới.’ Và với một tiếng thở phào nghe rất rõ, Howden nghiêm trang nói thêm, ‘ Quá nhiều quá sớm còn hơn quá ít quá trễ.’

Không chờ ai nhận định gì thêm, ông tiếp, ‘ Điều tôi sắp phải nói đây là một thông tin mới, nhưng chúng ta phải nhớ vị trí của mình khi thế chiến thứ ba bắt đầu.’

Ông nhìn mọi người qua làn khói thuốc lá ngập khắp phòng. ‘ Trong tình thế ngày nay, Canada không thể phát động chiến tranh – ít ra xét theo tư cách một quốc gia độc lập – cũng không thể giữ trung lập. Về điều thứ nhất chúng ta không có khả năng, điếu thứ hai, không thuận tiện về mặt địa lý. Tôi đưa vấn đề này ra, không phải là ý kiến mà là một thực tế sống còn.’

Những người quanh bàn dán mắt vào ông. Theo như ông thấy, không có biểu hiện bất đồng nào. Nhưng chắc sau này sẽ có. ‘ Những biện pháp phòng vệ của chúng ta đã và hiện chỉ có tính cách tượng trưng. Và việc Hoa Kỳ cấp ngân sách cho quốc phòng của Canada không phải là điều bí mật, mặc dù chưa cao như ngân sách quốc phòng đòi hỏi, nhưng cũng lớn hơn của chính chúng ta.’

Adrian Nesbitson mở miệng lần thứ nhất và ông nói một cách cộc cằn, ‘ Nhưng đó có phải lòng nhân đạo đâu. Người Mỹ sẽ bảo vệ Canada vì họ phải làm để bảo vệ chính họ. Chúng ta không bị bắt buộc phải mang ơn.’

James Howen đáp một cách chua chát , ‘ Đôi khi tôi thừa nhận phải cám ơn thượng đế là có những người bạn đáng kính, chứ không phải kẻ thù nằm kề với biên giới chúng ta.’

‘ Nghe nào, nghe nào!’ Đó là Lucien Perrault, răng ông cắn vào điếu xì gà chỉa lên một cách ngạo mạn. Ông lấy điếu xì gà xuống và bấu một tay vào vai Adrian Nesbitson ngồi bên cạnh, ‘ Không sao, ông bạn già, tôi sẽ mang ơn cả hai chúng ta.’

Sự than vãn và nguyên do của nó làm Howden ngạc nhiên. Theo truyền thống ông đã nghĩ rằng sự phản đối lớn mạnh nhất đối với kế hoạch hiện thời của ông xuất phát từ phía Canada gốc Pháp mà phát ngôn viên của nó là Lucien Perrault: Canada gốc Pháp, sự sợ hãi bị lấn áp đã từ xa xưa; sự bất tín có gốc rễ sâu xa trong lịch sử về ảnh hưởng và mối ràng buộc với đồng minh. Lẽ nào ông nhận định sai? Có lẽ không; còn quá sớm để nói thế. Nhưng lần đầu tiên ông tự hỏi.

Một lần nữa giọng Howden vẫn cương quyết và đầy uy quyền, ‘ Cho phép tôi nhắc các ông một vài sự kiện. Tất cả chúng ta đều biết những hậu quả có thể xảy ra trong một cuộc chiến tranh nguyên tử. Sau một cuộc chiến như thế, sự sống còn tùy thuộc vào lưong thực và sự sản xuất lương thực. Quốc gia nào mà các vùng sản xuất lương thực bị nhiễm phóng xạ coi như đã thua trong cuộc chiến sống còn này.’

Stuart Cawston nói, ‘ Có nhiều lương thực hơn nữa sẽ bị xóa sạch.’ Nụ cười cố hữu của Stuart không còn.

Howden cao giọng, ‘ Nhưng sản xuất lương thực là điều duy nhất tạo thành vấn đề. Các thành phố sẽ bị san thành gạch vụn và nhiều cái đẹp đẽ hơn sẽ bị như thế. Nhưng nếu sau đó, còn một vùng đất sạch, còn đất để trồng trọt lương thực thì bất kỳ ai còn lại đó có thể thoát ra khỏi đống gạch vụn và bắt đầu trở lại. Lương thực và đất để trồng trọt – đó là cái thực sự phải tính đến. Chúng ta từ đất mà ra và chúng ta sẽ trở lại với đất. Đó là cách để tồn tại. Cách duy nhất!’

Trên bức tường ở Ủy ban Tư vấn, một tấm bản đồ Bắc Mỹ đã được treo lên. James Howen đi lại gần nó và những cái đầu quay nhìn theo ông. Ông nói, ‘ Chính phủ Hoa Kỳ đã ý thức rõ các vùng lương thực phải được bảo vệ trước nhất. Kế hoạch của họ, là bằng mọi giá phải phòng vệ đất đai của chính họ.’ Tay ông chạy ngang bản đồ, ‘ Các vùng sản xuất bò sữa – bắc New York, Wiscosin, Minnesota; vùng xen canh ở Pensyvania; vành đai lúa mì – Montana và hai tiểu bang Dakota, vựa bắp Iowa; gia súc ở Wyoming; các vùng trồng trọt đặc biệt – Idaho, bắc Utah và về phía nam cùng tất cả những vùng còn lại.’ Howden thả tay xuống, ‘ Các vùng này sẽ được bảo vệ ưu tiên. Thứ nữa mới đến các thành phố.’

Lucien Perrault nhẹ nhàng nói, ‘ Và không có nguồn lương thực nào cho Canada.’

James Howden nói, ‘ Ông lầm rồi. Có nguồn lương thực cho đất đai Canada. Nó được dành cho bãi chiến trường.’

Ông quay lại tấm bản đồ. Bằng ngón trỏ tay phải, ông chỉ một loạt những điểm ở phía nam Canada, đi dần vào phía trong kể từ bờ biển Đại tây dương… ‘ Đây là đường bố trí tên lửa của Hoa Kỳ, các bệ phóng phòng thủ và những tên lửa liên lục địa. Nhờ nó, Hoa Kỳ sẽ bảo vệ được các vùng sản xuất lương thực. Ông biết chúng cũng rõ như tôi, cũng rõ như mọi nhân viên trong Cục Tình báo Nga Sô vậy.’

Arthur Lexington khẽ thì thầm, ‘Buffalo, Plattsburg, Presque Isle…’

Howden nói, ‘ Đúng thế. Những điểm này tượng trưng cho mũi phòng thủ của lực lượng phòng vệ Hoa Kỳ, chúng sẽ hình thành mục tiêu số một cho trận tấn công của Sô Viết. Nếu trận tấn công ấy – bằng tên lửa Nga Sô – bị đẩy lùi và chận đứng lại thì việc này sẽ xảy ra ngay trên Canada.’ Rất điệu bộ, lòng bàn tay ông quét ngang phần đất Canada trên bản đồ. ‘ Đó là bãi chiến trường. Theo kế hoạch hiện thời, đó là nơi trận chiến sẽ diễn ra.’ Mọi cặp mắt nhìn lên nơi bàn tay vừa đi qua ; một đường cắt rộng phía bắc biên giới, chia đôi vùng ngũ cốc phía tây và trung tâm kỹ nghệ phía đông. Trên đường này là các thành phố - Winnipeg, Fort William, Hamilton, Toronto, Monreal, những khu vực nhỏ hơn ở giữa, Howden nói, ‘ Phóng xạ sẽ nặng nề nhất ở đây. Trong vài ngày đầu chiến tranh, chúng ta cứ việc chờ những thành phố của chúng ta tan hoang, những vùng lương thực của chúng ta bị nhiễm độc và trở nên vô dụng.’

Bên ngoài chuông tháp Hòa bình báo mười lăm phút. Trong phòng chỉ nghe hơi thở nặng nề của Adrian Nesbitson và tiếng giấy sột soạt khi viên thư ký lật sang trang. Howden tự hỏi con người này đang nghĩ gì nếu ông ta đang suy nghĩ và có ai chụp được đúng những gì đang nghĩ đó không? Còn vấn đề này, có người nào trong số họ thực sự hiểu không? Và đến khi nó xảy ra rồi, hậu quả nào sẽ đến?

Khuôn mẫu cơ bản đương nhiên là giản dị đến ghê góm. Trừ phi có một tai nạn ngẫu nhiên nào đó, hay báo động lầm, thì người Nga hầu như chắc chắn sẽ khai hỏa trước, hướng tên lửa sẽ nằm ngay trên Canada. Nếu hệ thống báo động phối hợp hoạt động hiệu quả, viên tư lệnh người Mỹ sẽ có vài phút để báo trước trận tấn công – thời gian đủ để phóng đi các tên lửa phòng thủ của họ - các tên lửa tầm ngắn. Loạt bắn chặn đầu tiên sẽ diễn ra, theo tiên liệu, đâu đó ở phía bắc vùng Đại hồ, nam Ontario và Quebec. Những vũ khí tầm ngắn của Mỹ không có đầu đạn hạt nhân, nhưng của Sô Viết sẽ là tên lửa hạt nhân điều khiển từ xa. Do đó hậu quả mỗi đợt bắn chặn kế tiếp nhau sẽ là một vụ nổ bom khinh khí và so với nó, trái bom nguyên tử ở Hiroshima chỉ như cây pháo thăng thiên. Và dưới mỗi vụ nổ - Howden nghĩ, có quá nhiều nên không thể hi vọng chỉ có hai – sẽ có năm ngàn dặm vuông bị tàn phá và nhiễm phóng xạ.

Một cách nhanh nhẹn, bằng vài câu ngắn gọn và quả quyết, ông chuyển những hình ảnh này thành lời. Rồi ông kết luận, ‘ Như các ông hẳn phải thấy, khả năng sống còn của chúng ta với tư cách một quốc gia thừa hành không phải là quá phi thường.’

Lại yên lặng. Lần này Stuart Cawston phá vỡ sự yên lặng khi ông nói nhẹ nhàng, ‘ Tôi đã biết tất cả những chuyện này. Tôi cho rằng tất cả chúng ta đều biết. Song có một điều chưa được thực sự đưa ra… Ông tránh né những sự việc, còn những việc khác làm rối trí… Có lẽ vì chúng ta muốn…’

Howden nói, ‘ Tất cả chúng ta đều có lỗi về việc đó. Vấn đề là : chúng ta có thể đưa nó ra bây giờ chưa ?’

‘ Có một nghĩa “ trừ phi” trong những gì ông vừa nói, có phải không ?’ Lần này là tiếng Lucien Perrault, đôi mắt sâu của ông dò xét.

Howden thừa nhận, ‘ Phải. Có một nghĩa “trừ phi”. ‘ Ông liếc những người khác rồi nhìn thẳng mặt Perrault. Giong ông mạnh mẽ. Tất cả những điều tôi vừa trình bày đương nhiên sẽ xảy ra, trừ phi chúng ta chọn, mà không trì hoãn, cách hòa nhập tính cách quốc gia và quyền lợi tối thượng của chúng ta vào tính cách quốc gia của Hoa Kỳ.’

Phản ứng xảy ra thật nhanh.

Adrian Nesbitson vội vã đứng lên, ‘ Không bao giờ ! Không bao giờ !’ Mặt đỏ như tôm luộc, ông già này lúng búng một cách giận dữ.

Thái độ của Cawston bị kích động, ‘Nước này sẽ ném chúng ta ra ngoài.’

Douglas Martening kinh ngạc nói, ‘ Thưa Thủ tướng, ông có đứng đắn…’ Câu nói không bao giờ trọn. Nắm tay như đầu búa của Lucien Perrault đập mạnh xuống bàn. Ngạc nhiên, những giọng nói khác ngừng bặt. Nesbitson nín thinh. Dưới những lọn tóc đen, mặt Perrault cau lại. Howden nghĩ, Được, ta đã thua

Perrault nếu y bỏ đi, ta có được đôi chút hi vọng về tình đoàn kết quốc gia. Hiện giờ Quebec – người Canada nói tiếng Pháp – vẫn đứng riêng rẽ. Nó vẫn như vậy từ trước. Quebec là một khối đá tảng – sắc cạnh – mà trên đó những chính phủ khác đã xây dựng nên trong quá khứ.

Hôm nay, y có thể đưa đi những người khác; nhiều người y vẫn còn tin tưởng. Lý luận Anglo-Saxon cuối cùng sẽ thấy cái gì cần phải thấy và sau đó một mình Canada nói tiếng Anh vẫn cung cấp đủ sức mạnh ông cần. Nhưng sự chia rẽ quá sâu xa với nhiều cay đắng và xung đột; những vết thương không bao giờ lành miệng. Ông chờ Lucien Perrault đi ra.

Thay vì thế , Perrault nói, ‘ Tôi muốn nghe hết phần còn lại.’ Rồi thêm một cách tàn nhẫn, ‘ Mà không có tiếng gà qué xáo xác.’

Một lần nữa James Howden lại tự hỏi. Nhưng ông không phí thời gian.

‘ Có một đề nghị mà, trong trường hợp có chiến tranh, có thể làm thay đổi vị trí của chúng ta. Đề nghị ấy rất đơn giản. Đó là việc di chuyển các căn cứ tên lửa của Hoa Kỳ - tên lửa liên lục địa và tầm ngắn – đến phần phía bắc Canada của chúng ta. Nếu điều này được thực hiện., phần lớn hậu quả phóng xạ mà tôi vừa nói sẽ xảy ra trên vùng đất không người.’

Cawston nói, ‘ Nhưng còn có gió?’

Howden nhìn nhận, ‘ Phải. Nếu gió thổi từ phía bắc, có một mức độ phóng xạ ta không thoát được. Nhưng hãy nhớ không một quốc gia nào được bình an vô sự qua một trận chiến tranh nguyên tử. Tốt nhất là ta hi vọng giảm thiểu được các thiệt hại, tới mức tối đa.’

Adrian Nesbitson phản đối, ‘ Chúng ta đã cộng tác…’

Howden cắt ngang lời ông Bộ trưởng Quốc phòng già nua, ‘ Điều chúng ta vừa làm chỉ là những biện pháp nửa vời, những biện pháp không tới đầu tới đuôi, kéo dài thời gian ! Nếu chiến tranh xảy ra vào ngày mai, những sự chuẩn bị trẻ con của chúng ta chẳng đi tới đâu !’ Giọng ông cao lên, ‘ Chúng ta yếu thế và không được bảo vệ một cách chặt chẽ. Chúng ta sẽ bị đè bẹp và bị tràn ngập như nước Bỉ đã bị tràn ngập trong những trận đại chiến ở Âu châu. May ra thì chúng ta bị bắt và bị chinh phục. Không may thì chúng ta thành bãi chiến trường cho trận chiến nguyên tử, đất nước chúng ta sẽ bị tàn phá hoàn toàn, đồng ruộng sẽ bị bỏ hoang trong hàng thế kỷ. Song điều này không cần. Thời gian thì ngắn ngủi. Nhưng nếu chúng ta nhanh nhẹn, chân thật và trên tất cả mọi thực tại, chúng ta có thể sống sót, chịu đựng và có lẽ tìm được sự vĩ đại mà chúng ta mơ tưởng tới.’

Thủ tướng ngừng lời, những lời cũng làm chính ông xúc động. Trong chốc lát, ông có cảm giác như hụt hơi, như bị kích động vì tài lãnh đạo của mình, vì hình bóng lù lù của đại biến cố sẽ đến. Ông nghĩ , phải chăng đó cũng là điều mà Winston Churchill cảm thấy khi ông thúc đẩy những kẻ khác đương đầu với định mệnh và sự lớn lao. Ông so sánh tầm vóc giữa Churchill và ông. Có mơ hồ không? Ông cho rằng những kẻ khác bây giờ không nhìn thấy mà sau này cũng không nốt.

‘ Tôi vừa nói đến một đề nghị do Tổng thống Hoa Kỳ thông báo với tôi bốn mươi tám giờ trước.’ James Howden ngừng lại. Rồi, một cách rõ ràng và cân nhắc kỹ lưỡng, ‘ Đề nghị này là một Hiệp ước Liên minh long trọng giữa hai nước chúng ta. Nội dung của nó bao gồm sự sát nhập hoàn toàn nền quốc phòng của Canada vào Mỹ, giải tán các lực lượng vũ trang Canada và đưa họ vào quân đội Hoa Kỳ với lời tuyên thệ trung thành, mở cửa tất cả các vùng lãnh thổ của Canada để làm bãi diễn tập cho quân đội Mỹ; và – quan trọng nhất – chuyển đi, với tốc độ nhanh nhất có thể được, tất cả các căn cứ phóng tên lửa đến vùng cực bắc Canada.’

Cawston nói, ‘ Chúa tôi! Lạy Chúa tôi!’

Howden nói, ‘ Hãy khoan. Chưa hẳn đã hết. Hiệp ước Liên minh, như đã đề nghị, còn đưa ra liên minh hải quan và phối hợp điều hành các vấn đề ngoại giao. Nhưng ngoài các lãnh vực đó ra và những lãnh vực khác mà tôi vừa kể tên riêng biệt, sự toàn vẹn quốc gia và nền độc lập vẫn tồn tại.’

Ông bước lên trước vung tay chống lên mặt bàn. Lần đầu tiên giọng ông lộ vẻ xúc động. ‘ Nghĩa là , như các ông thấy đấy, một đề nghị vừa khủng khiếp vừa cứng rắn. Nhưng tôi có thể báo cho các ông biết rõ, tôi đã lượng định cẩn thận, suy xét đến hậu quả và, theo ý tôi, đây là con đường duy nhất để chúng ta thoát được, với tư cách một quốc gia, cuộc chiến tranh sắp xảy ra.’

Giọng Stuart Cawston lộ vẻ e ngại, ‘ Nhưng tại sao lại bằng cách này?’ Ông Bộ trưởng Tài chánh hình như chưa bao giờ lo lắng hay bối rối đến thế. Như thể một chế độ được thiết lập theo trật tự cũ đang đổ vỡ quanh ông. Howden nghĩ, ‘ Phải, nó cũng đang đổ vỡ đối với tất cả chúng ta. Mỗi thế giới đều tạo dựng một con đường riêng và mỗi người đều tưởng thế giới của riêng mình là an toàn.

Howden nói thật nhanh như loạt đạn súng máy, ‘ Bởi vì không còn cách nào khác và thời gian nào khác. Bởi vì sự chuẩn bị là cần thiết, chúng ta chỉ còn ba trăm ngày và có lẽ - nhờ ý Chúa – nhiều hơn một chút, nhưng không quá nhiều. Bởi vì phải hành động nhanh như nước cuốn ! Bởi vì không còn thời gian để rụt rè nữa! Bởi vì đến tận bây giờ, trong từng Ủy ban Liên hợp quốc phòng, bóng ma của sự tự tôn quốc gia vẫn còn ám ảnh chúng ta và làm tê liệt các quyết định, nó sẽ còn ám ảnh và làm tê liệt chúng ta khi chúng ta càng cố hòa giải và vá víu. Ông hỏi tôi – tại sao lại bằng cách này ? Tôi nói lại cho ông biết – không còn cách nào khác !’

Và bây giờ, thật bình tĩnh và cố lấy giọng của người hòa giải, Arthur Lexington nói, ‘ Tôi hình dung điều mà hầu hết mọi người đều muốn biết là chúng ta có còn là một quốc gia dưới một hiệp ước như thế hay chúng ta chỉ là một vệ tinh của Mỹ - một thứ tiểu bang năm mươi hai không chính thức, một khi sự kiểm soát chính sách đối ngoại của chúng ta bị ràng buộc, điều hẳn sẽ xảy ra dù chúng ta có nói hay không, rất cần thiết phải có sự tin cậy.’

Lucien Perrault nói chậm rãi, đôi mắt đen tư lự nhìn chằm chằm vào Howden, ‘ Trong một tình thế khác, một thỏa thuận như thế cần phải được phê chuẩn. Đương nhiên phải có một điều khoản đặc biệt.’

Thủ tướng nói, ‘ Thời gian hiệu lực được đề nghị là hai mươi lăm năm. Dĩ nhiên có điều khoản là Hiệp ước Liên minh sẽ hết hiệu lực theo thỏa thuận chung, chứ không do đơn phương một bên. Về điểm liên quan tới sự tin cậy – vâng, chắc chắn chúng ta phải làm thế. Vấn đề là: ông muốn đặt sự tin cậy của ông ở đâu? - ở hi vọng mong manh là chiến tranh sẽ không xảy ra, hay ở lời hứa của một người láng giềng và đồng minh mà quan niệm đạo đức quốc tế của họ là một cái gì giống của ta chăng?’

Cawston nói, ‘ Nhưng còn đất nước! Ông có thể thuyết phục được đất nước ư?’

Howden đáp, ‘ Phải. Tôi tin là chúng ta có thể.’ Và ông tiếp tục cho họ biết lý do : con đường mà ông đã dự liệu; sự phản đối nào có thể; cuộc bầu cử dựa trên tình hình đó và phải chiến thắng. Cuộc bàn cãi cứ tiếp diễn. Một giờ , hai giờ rồi hai giờ rưỡi trôi qua. Cà phê được mang vào, nhưng ngoại trừ một giây phút ngắn, còn thì cuộc thảo luận không ngừng nghỉ . Howden để ý thấy giấy lau đồ uống cà phê có hình lá ô rô. Sự nhắc nhở lạ lùng – Giáng sinh chỉ còn vài giờ nữa. Ngày sinh của Chúa. Howden nghĩ : điều Ngài dạy chúng ta giản dị biết bao. Tình yêu là một cảm xúc duy nhất có giá trị - một giáo điều hợp lý và phải đạo, dù là bạn tin ở đấng Christ con của Chúa hay ở Jesus, người đã chết như một bậc thánh. Nhưng con người này không bao giờ tin ở tình yêu – tình yêu thuần túy – và sẽ thực sự không bao giờ. Ông đã phỉ báng lời Chúa bằng thành kiến và các nhà thờ của ông đã làm mê muội những lời đó; Howden nghĩ, chúng ta có ở đây để làm cái chúng ta phải làm vào Ngày Áp Lễ.

Stuart Cawston nhồi lại tẩu thuốc có lẽ là lần thứ mười. Perrault đã đốt hết xì gà và đang hút thuốc điếu của Douglas Martening. Arthur Lexington – cũng như Thủ tướng, không hút thuốc – mở cánh cửa sổ sau lưng ra một lát rồi lại đóng lại vì gió lùa. Có một tấm thảm khói lơ lửng trên bàn và cũng như khói, có một cái gì như là hư không. Điều đang xảy ra, như là không có thể; nó không thể là sự thực. Song le, một cách chậm chạp, James Howden cảm thấy thực tại đang bấu lấy, sự xác tín đang xiết chặt trên từng người khác như đã xiết chặt lấy ông.

Lexington đã ở về phía ông; với ông Bộ trưởng Ngoại giao, điều này không có gì mới cả. Cawston đang lưỡng lự. Adrian Nesbitson hầu như yên lặng, nhưng ông già này không tính đến. Douglas Martening thoạt đầu có bị khích động nhưng suy cho cùng ông vốn là công chức sẽ hành động như đã nhận lệnh. Còn lại Lucien Perrault – sự phản đối của ông ta là đương nhiên nhưng không được nói ra.

Viên Thư ký Ủy ban Tư vấn nói, ‘ Thưa Thủ tướng, có một số vấn đề thuộc về lập pháp.’ Giọng ông là giọng bất mãn nhưng vẫn nhỏ nhẹ, như thể chỉ nhắm vào vài thay đổi có tính hình thức không đáng kể.

Howden nói dứt khoát, ‘ Ta sẽ quyết định thôi. Tôi, là một, không đề nghị chấp nhận sự hủy bỏ vì một số điều khoản nào đó đã được tiêu hủy trong sách luật.’

Cawston nói, ‘ Quebec. Chúng ta không bao giờ gánh cả Quebec.’

Giây phút ấy đã đến.

James Howden bình tĩnh nói, ‘ Tôi thừa nhận rằng ý nghĩ đó đã có trong tâm trí tôi.’

Những người còn lại từ từ đảo mắt nhìn Lucien Perrault – Perrault, kẻ bị chọn -; biểu tượng và là phát ngôn viên của Canada gốc Pháp. Như những người đi trước ông – Laurier, Lapointe, St Laurent – một mình ông trong hai cuộc bầu cử qua đã làm rung rinh sức mạnh của Quebec sau lưng chính phủ của Howden. Và sau lưng Perrault là ba trăm năm năm lịch sử; nước Pháp mới, Chaplain, chính phủ hoàng gia của Louis XIV, cuộc chinh phục của người Anh – và sự thù hận của dân Canada gốc Pháp đối với những kẻ đi chinh phục. Sự thù hận đã tiêu tan theo thời gian, nhưng sự nghi ngờ - cả hai mặt – thì không bao giờ hết. Đã hai lần, trong những cuộc chiến tranh ở thế kỷ 20 có dính dấp đến Canada, những tranh chấp của họ đã làm chia rẽ quốc gia này. Sự hòa giải và tiết chế đã cứu vớt khối thống nhất không dễ dàng. Nhưng bây giờ…

Perrault mỉa mai , ‘ Có vẻ như không cần phải nói nữa. Hinh như các ông, quý đồng nghiệp của tôi, đã bắc cái ống thông vào đầu tôi rồi.’

Cawston nói, ‘ Khó biết các dữ kiện, cả lịch sử cũng vậy.’

Perrault nhẹ nhàng nói, ‘ Lịch sử,’ rồi đập mạnh tay xuống. Cả cái bàn rung rinh. Và ông nổ bùng cơn giận dữ, ‘ Đã không có ai bảo cho các ông biết rằng lịch sử chuyển động; rằng trí óc tiến triển và thay đổi; rằng sự chia rẽ không kéo dài mãi mãi sao ? Hay các ông đã ngủ quên – ngủ quên trong khi những cái đầu sáng suốt hơn đã chín ?’

Như có luồng điện trong phòng, những lời kinh hoàng này nổ như tiếng sấm.

Perrault gào lên, ‘ Các ông nhìn chúng tôi như thế nào – chúng tôi dân Quebec? Mãi mãi là bọn nông dân, lũ đần độn, vô học? Có phải chúng tôi không hay biết, mù tịt và lãng quên thế giới đang chuyển biến?

Không, thưa quý ông, chúng tôi thức thời hơn các ông và ít ngạc nhiên hơn với những gì đã là quá khứ. Nếu đây là điều phải làm thì sẽ được làm cho dù là đau đớn. Nhưng đau đớn chẳng là chuyện mới mẻ gì với dân Canada gốc Pháp; và cả thực tại cũng vậy.’

Stuart Cawston nói tỉnh rụi, ‘Ừ mà, ông chẳng bao giờ bảo con mèo nào nhảy theo điệu nào cả.’

Đó là tất cả những gì cần thiết. Sự căng thẳng, như có phép lạ, tan đi trong một chuỗi cười dòn. Những chiếc ghế kéo dịch ra sau. Perrault, những giọt nước mắt vui mừng trào ra, đấm mạnh vào vai Cawston. Howden nghĩ, chúng ta là một dân tộc lạ lùng, sự pha trộn bất ngờ giữa tầm thường với thiên tài và đôi khi vụt chói sáng một vĩ nhân.                                

Lucien Perrault nhún vai, một cử chỉ lãnh đạm rất tây, ‘ Có lẽ với tôi thế là xong. Nhưng tôi sẽ ủng hộ Thủ tướng và tôi có thể thuyết phục những người khác.’ Đó là một tuyệt phẩm vắn tắt và Howden thấy lòng biết ơn trào dâng.

Còn một mình Adrian Nesbitson vẫn giữ yên lặng chờ sự trao đổi sau cùng. Và, giọng ông vụt trở nên mạnh mẽ, ‘ Nếu đó là cách các ông cảm thấy, sao lại ngừng ở biện pháp nửa vời ? Tại sao không bán hết cho Hoa Kỳ luôn?’ Cả năm cái đầu cùng một lúc quay về phía ông.

Ông già này đỏ mặt nhưng bướng bỉnh nói tiếp, ‘Tôi nói là chúng ta phải duy trì nền độc lập – với bất kỳ giá nào.’

James Howden lạnh lùng nói, ‘ Về điểm này, chắc chắn sẽ đẩy lùi một cuộc xâm lăng bằng nguyên tử.’ Nối tiếp Perrault, những lời của Nesbitson giống như một cơn mưa lạnh lẽo, ảm đạm. Cố nén giận, Howden nói thêm, ‘ Hay có lẽ ông Bộ trưởng Quốc phòng có một vài cách hành động mà chúng ta chưa được nghe.’

Howden tự nhắc cho mình nhớ một cách cay đắng rằng đây là một kiểu mẫu ngu xuẩn, thiển cận, mà ông phải đương đầu trong những tuần lễ tới. Trong một thoáng ông phác họa những Nesbitson khác sẽ lần lượt xuất hiện : những người lính già bằng giấy với những lá cờ hiệu đã bạc phai, một toán kỵ mã với tinh thần ái quốc cực đoan và xuẩn ngốc nhắm mắt diễn hành vào lãng quên. Ông nghĩ, thật mỉa mai, khi phải phung phí trí tuệ của mình đi thuyết phục lũ ngu ngốc như Nesbitson về yêu cầu cứu lấy bọn chúng.

Một sự yên lặng khó chịu. Sau đó trong Nội các, việc Thủ tướng không hài lòng về ông Bộ trưởng Quốc phòng không còn là điều bí mật nữa.

Bây giờ, Howden tiếp tục, bộ mặt diều hâu tái nhợt đi, ông nói như mạt sát Adrian Nesbitson, ‘ Trong quá khứ, chính phủ này đã quan tâm đầy đủ đến việc duy trì nền độc lập quốc gia và ý định của tôi trong lãnh vực này đã được chứng minh quá nhiều lần.’

Tiếng xì xầm tán đồng. ‘ Quyết định của cá nhân tôi vào lúc này đã không dễ dàng mà có được, và tôi nghĩ tôi có thể nói nó đòi hỏi một chút can đảm. Phương cách dễ dàng là phương cách liều lĩnh, ai đó có thể cho đó cũng là can đảm, nhưng xét cho cùng, đó mới là hèn nhát.’ Nghe đến từ “hèn nhát”, tướng Nesbitson tím mặt, nhưng Thủ tướng chưa nói hết, ‘ Còn một điều nữa. Trong những tuần lễ về sau, bất kỳ chúng ta bàn luận gì, tôi không muốn đụng phải, trong số những thành viên của Chính phủ đây, những từ ngữ chính trị thối tha kiểu như “bán hết cho Hoa Kỳ”.’

Howden luôn luôn chế ngự Nội các của ông một cách mạnh mẽ, đôi khi cũng cạo các Bộ trưởng ra trò và thường không nói riêng một ai . Nhưng chưa bao giờ ông giận dữ đến thế.

Những người khác nhìn Adrian Nesbitson một cách khó chịu.

Thoạt đầu người lính già này có vẻ muốn trả đũa. Ông ngồi nhích tới trước, mặt đầy sắc giận. Ông sắp sửa nói. Rồi bỗng, như một sợi dây cót đã nhão rũ xuống, ông thất trận thấy rõ, trở lại thành một ông già, mù mờ và chới với trong những lãnh vực mà ông hoàn toàn thiếu kinh nghiệm. Lẩm bẩm cái gì như là , ‘ Có lẽ hiểu lầm… những câu lỡ lời…’ Ông co rúm trong ghế, chỉ còn muốn không ai chú ý tới ông.

Như để tỏ dấu thông cảm, Stuart Cawston nói vội vàng, ‘ Theo quan điểm của chúng ta, liên minh hải quan hẳn sẽ hấp dẫn lắm đây vì chúng ta sẽ phải có lợi nhất.’ Trong khi những người khác quay nhìn ông, ông Bộ trưởng Tài chánh dừng lại , bộ óc nhạy bén của ông ước lượng tách bạch các khả năng. Và ông tiếp, ‘ Nhưng bất kỳ sự thỏa thuận nào cũng phải được cứu xét kỷ lưỡng hơn thế . Suy cho cùng, vì người Mỹ là người tiêu thụ cho nên đó chính là biện pháp bảo vệ chính họ cũng như chúng ta. Phải có những bảo đảm cho sự sản xuất ở đây, mở rộng nền kỹ nghệ của chúng ta…’

Howden nói, ‘ Yêu cầu của chúng ta không nhẹ đâu, tôi sẽ đặt vấn đề rõ ràng ở Washington. Trong thời gian còn lại, chúng ta phải củng cố nền kinh tế để sau chiến tranh ta sẽ là kẻ mạnh hơn.’

Cawston khẽ khàng nói, ‘ Có thể hành động theo cách đó – thực sự là có thể.’

Howden nói, ‘ Còn một cách khác, một yêu cầu khác – yêu cầu lớn nhất – tôi có ý định đưa ra.’

Yên lặng và Lucien Perrault lên tiếng, ‘ Thưa Thủ tướng, chúng tôi đang lắng nghe đây, ông nói đến một yêu cầu khác.’

Arthur nghịch với cây bút chì, vẻ trầm ngâm.

Howden quyết định, ông không dám nói ra. Ít nhất, cũng chưa nên. Chủ trương này quá lớn, quá táo bạo, dưới một hình thức nào đó, mâu thuẫn nữa. Ông nhớ lại phản ứng của Lexington ngày hôm qua khi họ nói chuyện tay đôi với nhau, lúc Thủ tướng lộ ý định của mình. Ông Bộ trưởng Ngoại giao đã phản đối, ‘ Người Mỹ sẽ không bao giờ đồng ý. Không bao giờ.’ Và James Howden đã chậm rãi trả lời, ‘ Nếu như họ khá là tuyệt vọng, tôi nghĩ là có thể.’

Và bây giờ, một cách cương quyết, ông đối đầu với những người này, ‘ Tôi không thể cho các ông biết được, trừ phi yêu cầu này được giải quyết, đó sẽ là thành tựu lớn nhất của Canada trong thế kỷ này. Ngoài điều đó ra, cho tới sau cuộc hội kiến với Bạch ốc, các ông nên tin ở tôi.’ Ông cao giọng nói như ra lệnh, ‘ Các ông đã tin tôi từ trước. Tôi đòi hỏi niềm tin của các ông một lần nữa.’

Quanh bàn, những cái gật đầu kế tiếp nhau.

Nhìn họ, Howden cảm thấy có một niềm hứng khởi mới đang bắt đầu. Ông biết, họ ở về phía ông. Bằng sự thuyết phục, bằng sự hợp lý hợp tình và bằng cả sức mạnh của quyền lãnh đạo, ông đã đưa cuộc thảo luận đến đây và đạt được sự ủng hộ. Đó là cuộc trắc nghiệm đầu tiên, và cái ông đã làm được cũng sẽ làm được ở nơi khác.

Chỉ Adrian Nesbitson ngồi không cử động và im lặng, mắt nhìn xuống, bộ mặt đầy nếp nhăn u tối.

Howden liếc nhìn ông ta, cơn giận lại trào lên. Cho dù Nesbitson có là một thằng ngốc, sự ủng hộ tượng trưng của Bộ trưởng Quốc phòng vẫn là điều cần thiết. Rồi cơn giận chìm xuống. Ông già này có thể được loại bỏ một cách nhanh chóng và khi đó sẽ không còn phiền phức nữa.

 

 

 

 

 

 

 


Đăng nhập để gửi phản hồi cho bài viết