TRÊN ĐỈNH CAO QUYỀN LỰC, KỲ 6

Chương 11

 

TÒA BẠCH ỐC

 

1.

 

 

Từ thư viện cửa sổ Blair, James Howden ngắm quang cảnh trên đại lộ Pennsylvania. Lúc đó là 10 giờ sáng của ngày thứ hai ở Washington, buổi họp giữa ông, Tổng thống, Arthur Lexington cùng bộ tham mưu dự định sẽ bắt đầu trong một giờ nữa.

Làn gió nhẹ khẽ lay động bức màn cạnh ông nơi cửa sổ mở rộng. Ngoài trời, đây là lúc thời tiết tốt nhất ở Washington: êm dịu như mùa xuân với mặt trời nắng ấm. Bên kia đường, Thủ tướng nhìn thấy những bồn cỏ tỉa xén gọn gàng trong tòa Bạch ốc và tòa nhà hành pháp, lấp lóa ánh mặt trời ở ngoài xa kia.

Quay sang Arthur Lexington, Howden hỏi, ‘ Ông nghĩ gì về những việc tương lai ?’

Viên Bộ trưởng Ngoại giao, mặc áo khoác hiệu Harris sang trọng, đang hí hoáy với chiếc T.V. màu, đứng thẳng lên, vặn tắt nó đi, ông ngẩm nghĩ.

Rồi lên tiếng, ‘ Nói một cách sống sượng nhất, tôi có thể cho rằng chúng ta đang ở trong thị trường của người bán, những nhượng bộ về phía chúng ta, những yêu cầu của Hoa Kỳ, những yêu cầu ngặt nghèo. Còn cái gì nữa, thì ở đây họ rất biết rồi.’

Hai người ăn sáng riêng; Thủ tướng và Margaret ăn trong phòng, Arthur Lexington và người trong phái đoàn ăn ở dưới lầu. Người Canada là những khách mời duy nhất trong tòa nhà quốc khách rộng rãi của Tổng thống, họ đã quay về đây sau bữa dạ tiệc đêm qua ở tòa Bạch ốc.

Howden chậm chạp gật đầu. ‘ Đó cũng là cảm tưởng của tôi.’

Thủ tướng ngắm nghía tòa thư viện dài và tuyệt đẹp. Những trường kỷ và ghế bọc nệm dày. Cái bàn kiểu Chippendale lớn, những bức tường chất đầy sách, nó như âm hưởng êm đềm của lạnh lẽo và cô tịch. Ông nghĩ, chính ở đây, trong căn phòng này, Lincoln đã nghỉ ngơi và trò chuyện; nhiều năm về sau, gia đình Truman cũng nghỉ ở đây trong khi chờ tòa Bạch ốc sửa chữa lại; Hoàng đế Saul của Ả rập đã ngủ ở đây với vệ binh riêng canh gác, võ trang bằng mã tấu; cũng ở đây, De Gaulle sắp sửa nổi giận, Adenauer duyên dáng và Krushchev huênh hoang… và nhiều người khác nữa. Ông tự hỏi, ông có được nhớ đến trong hàng người dài dằng dặc này không và nếu có, sẽ được phẩm bình như thế nào.

Lexington tư lự, ‘ Thêm những chuyện nhỏ nhặt nữa. Cung cách tiếp đón ông ngày hôm qua, chẳng hạn. Tôi chưa bao giờ thấy Tổng thống ra phi trường đón một người Canada nào. Thường chúng ta chỉ được những chú cá con ra đón và được đối xử như những người anh em nhà quê – Ngay cả Thủ tướng cũng vậy. Có lần, lúc John Diefenbake đến dự tiệc ở tòa Bạch ốc còn bị xếp ngồi chung với các mục sư nữa kìa !’

Howden mỉm cười nhớ lại, ‘ Phải, tôi nhớ rồi. Ông ấy ghét lắm, cũng không thể nói là mình sỉ nhục ông ấy. Không phải đó là thời Eisenhower đọc diễn văn và tiếp tục nói về “ Cộng hòa” Canada chứ nhỉ ?’

Lexington mỉm cười.

James Howden thả người xuống chiếc ghế xoay bọc nệm. Ông nhận xét, ‘Tối qua chắc chắn họ đã lừa chúng ta. Ông có nghĩ là họ đang xoay sở , đang tỏ ra tử tế v.v. và v.v.; hẳn họ phải tế nhị hơn một chút nữa.’ Arhtur Lexington đảo mắt, bộ mặt hồng hào, chiếc cà vạt thắt khéo không chê vào đâu được. Howden nghĩ, đôi khi ông Bộ trưởng Ngoại giao giống như một vị hiệu trưởng từ tâm quen xử sự cương quyết nhưng kiên nhẫn với lũ học trò nghịch ngợm. Có lẽ chính điều này làm ông có vẻ trẻ trung dù năm tháng và bao nhiêu điều khác nữa vẫn đang chồng chất lên người ông.

Lexington nói, ‘ Tế nhị và Bộ Ngoại giao có những vị trí riêng rẽ. Ông biết đấy, tôi vẫn thường nghĩ chính sách ngoại giao của người Mỹ thể hiện theo 2 hướng – hoặc cưỡng ép một cách cố tình hoặc sẵn sàng để chấp nhận điều đó. Ít khi có thái độ trung dung.’

Thủ tướng phá lên cười, ‘ Thế bây giờ thì sao ?’ Ông luôn luôn tận hưởng những giờ phút chỉ có hai người với nhau. Họ là những người bạn chân tình của nhau, tin tưởng tuyệt đối vào nhau. Có lẽ lý do là vì giữa họ không có thái độ cạnh tranh nhau. Trong khi những người này người nọ trong Nội các, hoặc công khai hoặc kín đáo, đều thèm muốn chiếc ghế Thủ tướng thì Arthur Lexington, như Howden biết rất rõ, lại không hề có tham vọng đó.

Lexington lẽ ra vẫn cứ là Ngài Đại sứ, hạnh phúc trong hai thú vui vào những giờ rảnh là sưu tập tem và nghiên cứu về điểu học, nếu như Howden không thuyết phục ông bỏ nghề ngoại giao , để gia nhập đảng và tiếp đó là Nội các. Lòng trung thành và ý thức trách nhiệm mạnh mẽ đã giữ ông lại từ đó, nhưng ông không hề giấu giếm ý nghĩ về cuộc sống mai hậu, ngày mà ông từ bỏ chính trường quay về sống đời riêng.

Lexington bước qua lại trên tấm thảm dài màu ngọc thạch lựu. Rồi ông dừng lại và nói, ‘ Cũng như ông vậy, tôi không để ý chuyện gây rắc rối.’

‘ Nhưng có nhiều người cho rằng ta phải làm thế.’

‘ Cũng có người sẽ chỉ ra con đường ta nên theo. Cũng còn những người chân thật trong số họ - chứ không phải rặt bọn xúi bẩy dư luận kia.’

Howden nói, ‘ Phải, tôi đã nghĩ thế. Tôi e là Hiệp ước Liên minh sẽ làm tiêu một số đảng phái của ta. Nhưng tôi vẫn phải tin rằng không còn cách chọn lựa nào khác.’

Vị Bộ trưởng Ngoại giao ngồi vào ghế đối diện. Ông kéo cái gác chân lại gần và gác cả hai chân lên.

Lúc Howden nhìn ông chăm chú, Lexington lắc đầu, ‘ Thưa Thủ tướng , ước gì tôi chắc chắn được như ông. Ô, đừng hiểu lầm tôi, tôi đang đi cùng ông suốt cả con đường. Nhưng chính tốc độ đi mới làm tôi hoảng. Điều đáng lo là, chúng ta đang sống trong một thời kỳ lịch sự bị dồn ép, song chẳng mấy người nhận ra. Những biến chuyển đáng ra phải mất năm mươi năm thì chỉ mất có năm năm hoặc ít hơn và chúng ta chẳng giúp gì được vì những thông tin đã làm nó diễn ra như vậy. Có một điều tôi còn hy vọng là ta có thể giữ được ý thức đoàn kết quốc gia, nhưng không dễ đâu.’

Howden nói, ‘ Không bao giờ dễ cả.’

Lexington gật đầu và liếc nhìn đồng hồ. ‘ Còn nửa giờ nữa. Ta có nên gọi cà phê trước khi tới giờ hẹn với định mệnh không nhỉ ?’

 

2.

 

 

Trên dải băng căng ngang bồn cỏ ở tòa Bạch ốc, Tổng thống vui vẻ gọi bằng giọng mạnh mẽ và gắt nhóm phóng viên đang chen chúc, xô đẩy.

‘ Các anh phải lấy đủ cả hai người đấy.’ Rồi quay sang Thủ tướng ở cạnh ông, ‘ Ông nghĩ sao hả Jim ? Ta vào trong bắt đầu làm việc thôi chứ ?’

James Howden nói, ‘ Thưa Tổng thống, thật tội nghiệp. Nhưng tôi cho là tốt hơn ta phải vậy thôi. Sau mùa đông lạnh lẽo ở Ottawa, ông cảm thấy thích thú khí hậu ấm áp và ngập nắng. Ông gật đầu với một anh chàng thấp người, vai rộng, mặt sắc nét, cằm nhọn và cương quyết. Buổ họp báo ngoài trời mà cả hai người vừa cùng dự với các phóng viên ở tòa Bạch ốc làm ông rất hài lòng. Tổng thống đã hoàn toàn thuận theo ý của Thủ tướng một cách rất lịch sự, nói rất ít và hướng các câu hỏi của nhóm phóng viên về phía Howden để hôm nay và ngày mai, chính những lời của Howden sẽ được trích dẫn lại trên báo chí, truyền hình và truyền thanh. Và sau đó khi đi dạo trên bãi cỏ phía nam tòa Bạch ốc, theo yêu cầu các phóng viên nhiếp ảnh và truyền hình, Tổng thống đã cẩn thận để Howden đứng gần các ống kính nhất. Howden nghĩ, kết quả những việc này – kinh nghiệm hiếm hoi của một người Canada ở Washington – sẽ đóng góp rất nhiều cho hình ảnh ông khi quay về quê nhà.

Ông cảm thấy bàn tay khổng lồ của Tổng thống bóp chặt cánh tay ông, lôi đi và cả hai bước về bậc cấp của tòa nhà hành pháp. Gương mặt Tổng thống, dưới mái tóc đốm bạc rối bù và phần rẽ bên kia tém gọn, trông thư thái và thỏa mãn. ‘ Thế nào hả, Jim?… chính là lối nói miền trung Tây, dễ dàng mà đầy hiệu quả trong cuộc nói chuyện trên truyền hình. ‘ Thế nào đây nếu ta bỏ quách công việc của Ngài Tổng thống đi.’

Một nụ cười tủm tỉm. ‘ Tôi nghĩ là ông biết tên thánh tôi mà.’

Hài lòng một cách thành thật, Howden đáp, ‘ Tyler, tôi rất lấy làm hân hạnh.’ Trong một ngóc ngách đầu mình, ông tự hỏi nếu như mối giao tình này lọt ra ngoài báo chí. Ở Canada nó sẽ đính chính cho những kẻ chỉ trích ông, những kẻ cũng nhâu nhâu lên rằng chính phủ Howen thiếu ảnh hưởng tại Washington. Tất nhiên ông nhìn nhận rằng những cung cách lịch sự hôm nay và hôm qua bắt nguồn từ vị trí vững chắc của Canada – vị trí mà trong tâm trí ông, ông nghĩ phải củng cố nó. Nhưng không có lý do gì mà không hài lòng cả, hay là phải đảo lộn thế chính trị bất kỳ khi nào có thể được.

Khi đi qua thảm cỏ với lớp đất mềm dưới chân, James Howden nói, ‘ Tôi đã không có được cơ hội nào từ trước để chúc mừng riêng ông nhân dịp tái đắc cử.’

Một lần nữa, bàn tay như móng vuốt chim, lần này chộp cứng vai Thủ tướng, ‘ Sao nữa. Cám ơn Jim.’ Phải, một cuộc bầu cử thật thuyệt vời. Tôi hãnh diện nói rằng tôi đã đạt được số phiếu lớn nhất mà chưa vị Tổng thống Hoa Kỳ nào đạt được. Và như ông biết đấy, chúng tôi sẽ áp đảo Quốc hội. Còn nữa – chưa có vị Tổng thống nào có được sự ủng hộ mạnh mẽ như tôi ngay lúc này đây ở cả Hạ và Thượng viện. Tôi có thể nói một cách thành thật với ông là không có một dự luật nào tôi cần mà tôi không thể thông qua được. Ồ, tôi cũng phải có vài nhượng bộ này khác để đổi lấy việc đó, nhưng không thành vấn đề. Đó là một tình thế độc nhất vô nhị.’

Howden nghĩ là chêm vài câu lấy lòng cũng chẳng hại gì mấy. Ông nói , ‘ Có lẽ chỉ độc nhất với ông thôi. Nhưng tất nhiên, theo hệ thống đại nghị của chúng tôi thì đảng đương quyền luôn luôn có được dự luật

mình cần.’

‘ Đúng vậy! Đúng vậy ! Và cũng nghĩ là không có những lúc mà tôi – cả những vị tiền nhiệm của tôi

nữa – đến phải ganh tị với ông. Phép lạ trong hiến pháp của chúng tôi, như ông biết đấy, là nó hoạt động thông suốt.’ Giọng Tổng thống tiếp tục một cách mạnh mẽ, ‘ Điều đáng lo là, những vị cha già sáng lập đã quá bận tâm đến việc cắt rời những cái thuộc về người Anh cho nên họ đã loại bỏ những điều tốt đẹp nhất cùng với những điều tệ hại. Nhưng người ta tạo nên cái tốt đẹp nhất trong những cái người ta có, cho dù nó thuộc về chính trị hay cá nhân.’

Nói tới đây thì họ cũng đi tới bậc cấp ở bao lơn rộng lớn chạy dưới hành lang mái vòm phía nam có

hàng cột đỡ. Tổng thống đi trước, nhảy từng hai bậc một và không muốn bị qua mặt, James Howden cũng nhảy theo cùng nhịp bước.

Nhưng mới được nửa đường, Thủ tướng hụt hơi ngừng lại, tháo mồ hôi. Bộ đồ bằng vải len màu xanh dương sậm, rất lý tưởng ở Ottawa, lại nặng nề một cách khó chịu trong nắng mặt trời ở Washington. Ông ước gì

mình mang theo vài bộ bằng vải mỏng, nhưng xem lại thì hình như không bộ nào thích hợp cho chuyến đi này. Nghe nói là Tổng thống rất kỷ lưỡng chuyện ăn mặc và có khi thay đồ nhiều lần mỗi ngày. Nhưng người đứng đầu ngành hành pháp Hoa Kỳ cũng không thoát ra khỏi những bận tâm về tiền bạc của riêng cá nhân như Thủ tướng Canada.

Ý nghĩ này làm Howden thốt nhớ rằng ông đã chưa báo tin cho Margaret về tình hình tài chánh của họ đã tồi tệ như thế nào. Người ở tổ hợp Montreal đã làm rõ điều này: trừ phi họ thôi gặm nhấm vài ngàn đồng còn lại, thì khi về hưu nguồn vốn chỉ còn ngang với mức lương của một người thợ hạng xoàng. Dĩ nhiên, thực tế không bao giờ xảy ra như vậy : tổ chức Rockefeller cùng vài tổ chức khác sẽ được cầu cứu - Rockefeller đã tặng Mackenzie King 100.000 đô la vào ngày viên Thủ tướng này về hưu – nhưng ý nghĩ phải đi xin bố thí của người Mỹ, cho dù hào phóng, vẫn thật nực cười.

Tổng thống đã đứng lại trên ông mấy bậc . Ông ân hận nói, ‘ Cho tôi xin lỗi. Tôi cứ quên và với ai cũng cứ làm vậy.’

Tim James Howden đập thình thịch; hơi thở nặng nề làm giọng nói đứt quãng, ‘ Lẽ ra tôi phải biết rõ hơn. Tôi hy vọng đó là lời ông lưu ý về sức khỏe của tôi.’ Cũng như mọi người khác, ông cũng hay biết về sự ham mê rèn luyện thể lực của Tổng thống và của những người quanh ông. Cả đoàn các tùy viên trong tòa Bạch ốc, gồm cả các viên tướng và đô đốc, chán nản bước mệt nhoài vì những ván banh ném, quần vợt, cầu lưới mỗi ngày với Tổng thống. Lời than phiền thường xuyên ở cửa miệng Tổng thống là, ‘ Thế hệ này có cái bụng của Đức Phật, và đôi vai như tai chó săn.’ Chính Tổng thống đã làm sống lại thú giải trí của Theodore Roosevelt bằng cách đi dạo ở đồng quê theo đường thẳng, bước qua bất cứ chướng ngại nào – cây cối, bụi rậm, đống rơm rạ, thay vì đi vòng qua. Ông cũng đã thử cách này ở Washington rồi. Howden nhớ đến chuyện đó và hỏi, ‘ Cái cách phá phách những vùng nơi ông đi qua thế nào rồi – cách đi thẳng từ A đến B ấy mà ?’

Tổng thống khúc khích cười lúc họ cùng bước lên cầu thang, ‘ Rốt cuộc thì tôi phải bỏ; vì có vướng víu vài vấn đề. Chúng tôi không thể bò lên những cao ốc ở đây được, trừ vài tòa nhà nhỏ, thế nên chúng tôi đi xuyên qua nó, bất ký chỗ nào có một đường thẳng. Đi cả vào những chỗ lạ nữa, một toa lét ở Ngũ giác đài – trong cửa ra vào và ngoài cửa sổ. Ông tủm tỉm nhớ lại, ‘ Nhưng có một hôm, anh tôi và tôi bị thương trong nhà bếp khách sạn Statler – đi vào trong phòng lạnh và không có thuốc nổ nên không có lối ra.’

Howden cười, ‘ Có lẽ chúng tôi cũng sẽ thử cách này ở Ottawa. Có vài kẻ đối lập, tôi muốn thấy họ đi theo đường thẳng – nhất là họ cứ tiếp tục đi.’

‘ Đối thủ của ta được phái tới để thử ta đấy, Jim ạ.’

Howden nói, ‘ Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng có kẻ này lại khắt khe hơn kẻ kia. Nhân tiện, tôi có mang mấy mẫu đá cho bộ sưu tập của ông. Người ở Bộ Khoáng sản và Tài nguyên nói với tôi đây là những mẫu độc nhất.’

Tổng thống nói, ‘ Ô, cám ơn ông. Tôi thực sự mang ơn ông. Xin chuyển lời cám ơn người của ông nữa.’ Từ hàng hiên phía nam, họ đi vào tòa Bạch ốc, lạnh lẽo, rồi đi qua một gian sảnh và các hành lang đến văn phòng Tổng thống ở góc đông nam tòa nhà. Mở cánh cửa sơn trắng, Tổng thống mời Howden vào.

Như thường lệ, trong những dịp ông có mặt ở đây, Thủ tướng nhận thấy vẻ giản dị trong căn phòng này. Có hình thuẫn, ốp gỗ ở lưng chừng, thảm màu xám đơn sơ, đồ đạc gồm một cái bàn rộng đặt ở giữa, một cái ghế xoay bọc nệm phía sau và sau ghế là hai lá cờ viền vàng, lá cờ sao và sọc của Tổng thống. Những cửa sổ liền từ sàn tới trần, một cửa đi kiểu Pháp dẫn ra sân thượng bên ngoài đối diện với một trường kỷ bọc lụa chiếm hết bức tường ở bên phải bàn. Trên trường kỷ đã có mặt Arthur Lexington và Đô đốc Levin Rapopport, ông này là một người nhỏ bé gầy nhom, bộ mặt khoằm khoặn như mỏ chim và cái đầu to không tương xứng làm người ông có vẻ như lùn xuống. Hai người đứng dậy khi Tổng thống và Thủ tướng đi vào.

Tổng thống nói một cách nồng nhiệt, đưa tay cho Lexington, ‘ Chào Arthur. Jim, ông biết Levin chứ, tất nhiên rồi.’

Howden nói, ‘Vâng, chúng tôi đã gặp nhau. Khỏe chứ, Đô đốc ?’

Đô đốc Rapopport gật đầu, cộc lốc và lạnh lùng. ‘ Chào.’ Ông ít khi tỏ thái độ gì khác hơn; có tiếng là nóng nảy cả trong những câu chuyện gẫu lẫn những nhiệm vụ xã hội. Viên Đô đốc này – một siêu phụ tá của Tổng thống – là nhân vật tai mắt vắng mặt trong buổi chiêu đãi đêm hôm trước.

Bốn người ngồi xuống, một khay rượu đươc anh bồi người Philippine mau lẹ đưa vào. Arthur Lexington chọn ly scotch pha nước, Tổng thống lấy ly anh đào. Đô đốc Rapopport lắc đầu từ chối và tới trước James Howden, anh bồi mỉm cười đặt ly nước nho có đá.

Trong khi đó, Howden kín đáo ngắm viên Đô đốc, nhớ lại những gì ông đã nghe nói về con người này, con người mà người ta nói là có bản chất mạnh mẽ như Tổng thống vậy.

Bốn năm trước, Thuyền trưởng Levin Rapopport, thuộc Hải quân Mỹ, là một sĩ quan hải quân thường trực sắp tới hạn về hưu bắt buộc - bắt buộc vì các Đô đốc thượng cấp của ông đã hai lần được thăng cấp vượt qua ông, cho dù ông là một chuyên viên xuất sắc được đánh giá cao đi tiên phong trong việc nghiên cứu khai hỏa dưới nước các hỏa tiển liên lục địa. Điều đáng lo là hầu như không ai ưa Levin Rapopport, một số khá lớn các thượng cấp của ông, những người có thế lực vẫn để tâm thù ghét ông. Hầy hết sự thù ghét này bắt nguồn từ thói quen cố chấp của Rapopport, thói quen bị bóp chết ngay khi mới để lộ ra, về sự bố phòng của Hải quân và sau đó không bao giờ do dự nói, ‘ Tôi đã nói ông thế mà.’ , những kẻ không đồng ý với ông chỉ gọi cộc lốc tên ông ra thôi.

Cộng thêm vào đó là tính tự phụ quá lớn (điều này được chứng minh hoàn toàn, nhưng dù sao cũng không vui lắm), những thói xấu ghê gớm, nóng nảy và công khai khinh bỉ kẻ khác , những kẻ Rapopport coi là trí thức hạ đẳng, mà hầu hết đúng là vậy.

Nhưng cái mà bộ tham mưu Hải quân không dự liệu được khi quyết định cho về hưu kẻ đối thủ thiên tài này là sự phản đối dữ dội - của Quốc hội và của công luận – trước viễn cảnh thiệt thòi cho quốc gia một khi bộ óc của Rapopport không còn nghiên cứu những vấn đề trọng đại nữa. Như một thành viên Quốc hội đã tóm tắt, ‘ Mẹ kiếp, chúng ta cần thằng chó đẻ này.’

Vì lẽ đó và vì bị cả Thượng viện và Bạch ốc chỉ trích gay gắt , Bộ Hải quân đã chịu nhượng bộ, thăng Rapopport lên chức Hải quân Thiếu tướng, để tránh cho ông khỏi về hưu. Hai năm sau và thêm hai cấp nữa, sau một loạt những công trạng lừng lẫy, Rapopport, (giờ đã là Đô đốc và gai góc hơn bao giờ hết), vừa được Tổng thống chuyển từ Hải quân sang bộ tham mưu của Tổng thống. Chỉ trong vài tuần lễ, bằng sự tận tâm, mau lẹ và khả năng kỳ lạ của mình, con người này đã tỏ rõ có năng lực hơn hẳn mà những người tiền nhiệm như Harry Hopkins, Sherman Adams hay Ted Sorrenson chưa từng biết tới.

Kể từ đó, bảng kê những thành đạt, đã hay chưa từng được biết đến, dài ra khủng khiếp; một chương trình viện trợ để tự cứu lấy mình ở hải ngoại, dù là muộn màng, giúp cho nước Mỹ được tôn trọng thay vì khinh bỉ; tại nội địa một kế hoạch về nông nghiệp mà các nhà nông phản đối dữ dội, đòi hỏi không được thực hiện nhưng ( như Rapopport đã nói ngay từ khi khởi đầu ) nó đã thực hiện; một nỗ lực nghiên cứu và trong trường kỳ, tái cấu trúc giáo dục về khoa học và thuần túy nghiên cứu; trong sự cưỡng chế về pháp luật, một mặt những man trá trong kỹ nghệ giảm xuống, mặt khác, là sự thanh tra chặt chẽ về lao động cùng lúc với việc tên Lufto, một trùm vô lại trong ngành lao động bị loại bỏ và tống giam.

(James Howden nhớ lại), có người trong lúc trò chuyện thân mật với Tổng thống đã hỏi, ‘ Nếu Rapopport làm việc giỏi như thế, tại sao ông ta không làm những công việc của Ngài ?’

Người ta kể là Tổng thống chỉ cười độ lượng và trả lời. ‘ Chỉ đơn giản là tôi được bầu lên. Còn Levin đâu có được sáu lá phiếu để đi bắt chó.’

Và như thế, trong khi Tổng thống được hoan nghênh vì khả năng chọn lựa nhân tài, thì Đô đốc Rapopport lại bị thù ghét oán giận theo tỉ lệ tương ứng.

James Howden tự hỏi làm sao con người khắc khổ và tàn nhẫn này lại có thể ảnh hưởng đến vận mệnh của Canada.

Tổng thống nói, ‘ Trước khi tiếp tục, tôi muốn hỏi, các ông đã có cái các ông cần ở tòa nhà Blair chưa ?’ Arthur Lexington mỉm cười trả lời, ‘ Chúng tôi đã được tiếp đón tử tế.’

‘ Ô, tôi rất mừng.’ Tổng thống ngồi xuống sau cái bàn khổng lồ. ‘ Đôi khi chúng tôi gặp đôi chút trở ngại trên đường đến đây - chẳng hạn khi người Ả rập đốt trầm, suốt một phần tòa nhà đều có mùi này. Dù vậy, tôi đoán chừng các ông không kiểm tra bên dưới phần gỗ ốp để tìm máy móc nghe trộm như người Nga vẫn làm.’ Howden nói, ‘ Chúng tôi hứa sẽ không làm vậy, nếu ông cho chúng tôi biết chúng dấu ở đâu.’

Tổng thống cười lục khục trong cổ, ‘ Tốt hơn ông nên đánh điện hỏi Kremlin ấy. Nhưng tôi cũng không ngạc nhiên đâu nếu họ chuồn máy truyền tin vào trong khi họ lẩn quẩn quanh đó.’

Howden nói một cách tự nhiên, ‘ Có lẽ đó không phải là một cách sắp xếp tồi. Ít ra chúng tôi cũng đã chu tất xong việc đó. Chúng tôi không muốn làm cùng một việc bằng những phương tiện khác.’

Tổng thống nhẹ nhàng nói, ‘ Không. Tôi e rằng chúng ta sẽ không làm.’

Im lặng dột ngột. Qua cửa sổ mở hé, nghe loáng thoáng tiếng xe cộ ở đường B và tiếng trẻ con hò reo trong sân tòa Bạch ốc. Ở đâu đó sát bên, bị những bức tường bít lại, tiếng máy chữ cảm thấy chứ không nghe được. Một cách tinh tế, Howden đã nhận ra, không khí đã thay đổi từ đùa cợt vui vẻ sang nghiêm trọng chết chóc. Ông lên tiếng hỏi, ‘ Tyler này, về chuyện máy ghi âm, ông có còn giữ ý kiến cho rằng những va chạm lớn và công khai, trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, có thể là không tránh khỏi ?’

‘ Và chúng ta thì chưa sẵn sàng, phải không ?’ Đó là Arthur Lexington, bộ mặt thiên thần của ông trầm tư.

Tổng thống chồm tới trước. Sau lưng ông, làn gió nhẹ lay động cánh màn và hai lá cờ. Ông nhỏ nhẹ nói,

‘ Không, thưa các ông. Chúng ta chưa sẵn sàng và sẽ không sẵn sàng đến khi nào Hoa kỳ và Canada, cùng hành động nhân danh tự do và hy vọng đến một thế giới tốt đẹp hơn mà, chúng ta sẽ cùng củng cố nó trong một biên giới duy nhất và một thành trì chung.’

Howden nghĩ, rồi, chúng ta đã đi vào vấn đề một cách nhanh chóng. Những người khác nhìn ông và ông nói, như đương nhiên phải nói, ‘Tyler, tôi đã nghiên cứu rất kỹ của Hiệp ước Liên minh của ông.’

Trên mặt Tổng thống, có một nụ cười mơ hồ. ‘ Phải rồi, Jim. Tôi đã hình dung ông sẽ làm thế.’

Howden nói, ‘ Có nhiều lời phản đối.’

Câu trả lời lướt nhẹ trên bàn, ‘ Khi đã có tầm mức trọng đại như thế, không ai phản đối mới là đáng ngạc nhiên.’

Howden nói, ‘ Trái lại. Tôi có thể cho ông biết rằng, các đồng nghiệp cao cấp của tôi và tôi đã ý thức được những lợi điểm thiết yếu trong những gì được đề nghị, chỉ khi nào được thẩm xét tới mức độ nào đó và có những bảo đảm đặc biệt.’

Đô đốc Rapopport chồm tới, lên tiếng lần thứ nhất, giọng căng thẳng và khô khan ‘ Ông nói đến việc thẩm xét và bảo đảm, chắc chắn ông và các đồng nghiệp mà ông nhắc đến đó, cũng đã thấy rằng, bất kỳ sự bảo đảm nào, từ bất cứ đâu, cũng sẽ là vô ích nếu không còn tồn tại.’

Arthur Lexington nói, ‘ Phải, chúng tôi đã cứu xét việc đó.’

Tổng thống nhanh nhẹn xen vào, ‘ Jim này, có một điều tôi muốn chúng ta ghi nhớ - cả ông nữa, Arthur – là thời gian đang trói tay chúng ta. Đó là lý do tôi muốn chúng ta hành động mau lẹ. Đó cũng là lý do chúng ta phải nói thẳng, dù có phải rụng lông, xù tóc.’

Howden cười chua chát, ‘ Sẽ không có cộng lông nào rụng cả, nếu có là ở con ó của các ông. Ông đề nghị điều gì trước ?’

‘ Jim, tôi muốn phong tỏa mặt đất trở lại, đó là điều tôi muốn làm. Thông qua điều chúng ta đã thảo luận trong tuần trước qua điện thoại. Hãy chắc chắn là chúng ta hiểu nhau. Rồi ta xem sẽ giới hạn theo con đường nào.’

Thủ tướng liếc nhìn Lexington, ông này khẽ gật đầu. Howden nói, ‘ Tốt lắm. Tôi có thể đồng ý điểm đó. Ông sẽ bắt đầu chứ ?’

‘ Phải. Chính tôi.’ Tổng thống ngồi yên trong chiếc ghế xoay, hơi nghiêng với tầm nhìn những người khác và hướng về ánh nắng bên ngoài. Rồi ông bật quay lại, nhìn vào mắt Howden.

Tổng thống nói chậm rãi, ‘ Tôi nói đến vấn đề thời gian. Thời gian để chuẩn bị cho cuộc tấn công mà chúng ta biết nhất định sẽ xảy ra.’

Arthur Lexington khẽ hỏi, ‘ Ông nghĩ chúng ta có được bao lâu ?’

Tổng thống đáp, ‘ Không có thời gian. Bằng cách tính toán, suy luận, nghiên cứu, chúng tôi đã tính hết cách rồi. Và nếu như có thời gian – nhờ bất cứ cách nào – thì đó chỉ do lòng lành của Chúa mà thôi. Xin hỏi, ông có tin ở lòng lành của Chúa không, Arthur ?’

Lexington mỉm cười, ‘ Đó là một điều hết sức mơ hồ.’

Một cánh tay giơ lên trên bàn, giống vuốt chim, ngón xòe ra như chúc phúc, ‘Không, hãy tin tôi, nó có đó. Nó đã cứu người Anh một lần rồi, khi họ chỉ còn một mình và có lẽ sẽ cứu cả chúng ta. Tôi đang cầu nguyện cho nó có và tôi đang cầu nguyện món quà tặng là một năm. Không thể có gì hơn nữa.’

Howden chen vào, ‘ Ba trăm ngày là điều tôi đang mong mỏi.’

Tổng thống gật đầu, Nếu ta có được, đó là nhờ Chúa. Và bất cứ cái gì ta có được, ngày mai sẽ là bớt đi một ngày, và một giờ kể từ bây giờ, là một giờ bớt đi.’ Giọng nói mang âm sắc Trung Tây, trở nên mau lẹ. ‘ Và chúng ta hãy xem bức tranh này như chúng ta tại Washington đang xem nó đây.’

Từng điểm một, bằng tài nămg của một bậc thầy, từng nhát cọ phủ đầy khung vải. Đầu tiên là những yếu tố Howden đã mô tả trong buổi họp Hội đồng Quốc phòng của ông : ưu tiên bảo vệ những vùng sản xuất lương thực của Mỹ - chìa khóa để sống còn sau một trận tấn công nguyên tử; những căn cứ tên lửa đang dựng lên trên biên giới Mỹ- Canada; việc bắn chận bằng tên lửa không thể tránh được trên lãnh thổ Canada; Canada thành bãi chiến trường, không phương tự vệ, bị bom đạn và những trận đánh hủy diệt tan tành; các vùng lương thực của Canada bị nhiễm độc…

Rồi lần lượt là những điểm : dời các căn cứ tên lửa lên phía bắc, khả năng tấn công mạnh hơn của Hoa kỳ, việc bắn chận ngay từ đầu để làm giảm sự tàn phá trên hai nước, tránh không để xảy ra các bãi chiến trường và cơ may để sống sót. Nhưng cái yêu cầu cực kỳ cấp thiết là tốc độ diễn biến, thẩm quyền dành cho nước Mỹ để hoạt động thật nhanh … Hiệp ước Liên minh như đã đề nghị; dành trọn quốc phòng của Canada cho Hoa kỳ; liên hiệp điều hành các vấn đề ngoại giao; giải tán tất cả lực lượng vũ trang Canada và sau đó gia nhập ngay vào đạo quân liên minh; hủy bỏ các đường biên giới; liên hiệp về thuế quan; thời gian hiệu lực hai mươi lăm năm; sự bảo đảm cho quyền tự trị của Canada trong tất cả các vấn đề không được liệt kê ở trên…

Tổng thống tuyên bố một cách giản dị , ‘ Đối diện với kẻ thù chung, kẻ không biết đến biên giới và không tôn trọng bất cứ chủ quyền nào, chúng ta dành cho Hiệp ước Liên minh này tất cả tình thân hữu, tôn vinh và danh dự.’

Rồi là yên lặng, con người bé nhỏ và vững vàng ngồi sau chiếc bàn lần lượt nhìn những người còn lại một cách kỳ quái. Một bàn tay đưa lên chải ngược ra sau mảng tóc bò liếm màu xám tro quen thuộc. James Howden nghĩ, đôi mắt tinh anh và sắc sảo, nhưng sau nó là nỗi buồn không che dấu được, nỗi buồn của một người có lẽ đạt được quá ít giấc mơ của đời mình.

Arthur Lexington lên tiếng, ‘ Thưa Tổng thống, dù với nguyên cớ nào đi nữa, hủy bỏ nền độc lập và thay đổi dòng lịch sử chỉ trong một đêm không phải là vấn đề tầm thường.’

Tổng thống nhận định, ‘ Dẫu sao, dòng lịch sử sẽ thay đổi dù chúng ta có hướng dẫn nó đi hay không.

Các biên giới không phải là bất biến đâu, Arthur; mà chúng cũng chưa hề hiện diện trong lịch sử nhân loại. Mỗi đường biên giới mà chúng ta biết sẽ thay đổi và biến mất theo thời gian, biên giới của chúng tôi và Canada cũng vậy thôi, cho dù chúng ta có thúc đẩy quá trình này hay không. Các quốc gia có thể tồn tại nửa thế kỷ hay hơn nữa; nhưng cuối cùng vẫn không có gì vĩnh viễn.’

Lexington nhẹ mỉm cười và đặt ly nước ông đang cầm xuống, ‘ Tôi đồng ý với ông về điểm đó. Nhưng còn những người khác ?’

Tổng thống lắc đầu, ‘ Không. Không phải là tất cả mọi người. Những người yêu nước – hay ít nhất những kẻ cuồng nhiệt ấy – chỉ có tầm nhìn thiển cận. Còn những người khác – nếu đặt ra cho họ một cách đơn giản – là đối đầu với các sự kiện, khi phải đối đầu xem.’

James Howden nói, ‘ Có lẽ, từ từ rồi họ sẽ phải thế thôi. Nhưng, Tyler, như ông đã chỉ ra – và tôi đồng ý – thời gian là phương tiện duy nhất mà chúng ta thiếu.’

‘ Jim, trong trường hợp đó, tôi muốn nghe ông đề nghị.’

Giây phút này đã đến. Howden nghĩ, đây là thời điểm để mặc cả thẳng thắn, sòng phẳng. Đây là điểm quyết định cho tương lai của Canada, nếu như nó còn tồn tại. Thực ra, nếu có đạt được thỏa thuận chung ngay bây giờ, thì sau này, còn phải thương thuyết thêm và các điểm đặc biệt, rất nhiều điểm đặc biệt và vô số chi tiết – phải cần các chuyên viên cả hai phía mổ xẻ kỹ càng. Nhưng đó là chuyện về sau. Những vấn đề chung, những nhượng bộ chủ yếu – nếu có điều gì phải bàn lại – phải được quyết định ngay tại đây và ngay bây giờ giữa Tổng thống và chính ông.

Yên lặng trong căn phòng bầu dục. Không còn tiếng xe cộ, tiếng trẻ con bên ngoài nữa – có lẽ gió đã đổi chiều, tiếng máy chữ cũng đã ngưng. Arthur Lexington đổi thế ngồi trên trường kỷ. Cạnh ông, Đô đốc Rapopport vẫn ngồi yên – như ông đã ngồi ngay từ đầu – như bị buộc chặt tại chỗ. Ghế Tổng thống ngồi kêu kin kít khi ông khẽ đảo người, đôi mắt lo âu và thăm dò nhìn dán lên mặt Thủ tướng, cũng đang đăm chiêu.

Howden nghĩ, chúng ta chỉ là bốn con người … những người này sẽ chết một cách bình thường, xương thịt tiêu tan, những kẻ sẽ chết và sẽ bị lãng quên… song le, những điều chúng ta quyết định hôm nay sẽ còn ảnh hưởng tới nhiều thế hệ mai sau trên thế giới.

Trong giây lát, khi sự yên lặng bao trùm, đầu óc James Howden bị sự lưỡng lự dằng xé. Bây giờ, thực tế đã sừng sững, nỗi nghi ngờ - ngay từ đầu – lại tấn công ông. Ý thức lịch sử vật lộn với sự lượng giá sáng suốt về những dữ kiện đã biết. Có phải việc ông có mặt ở đây, ngay tự bản chất, đã là sự phản bội đất nước mình ? Có phải thực tiễn – cái đã đưa ông tới Washington – chỉ là vấn đề tủi nhục chứ không phải là vinh dự ? Những bóng ma ông đã đối mặt, những nổi sợ ông đã lẩn tránh. Nhưng bây giờ chúng lại hiện ra đó, nguyên vẹn và thách thức.

Rồi ông lập luận, như đã làm trong mấy ngày vừa qua, rằng dòng lịch sử nhân loại đã chứng tò lòng tự tôn quốc gia – cái bản chất không thay đổi ấy – mới là kẻ thù tệ hại nhất của nhân loại, và những con người bình thường phải trả giá bằng sự chịu đựng. Các quốc gia đã tiêu vong vì hư vinh, khi sự tiết chế có thể khai hóa và cứu vớt lấy chúng. Ông đã quyết định, Canada không thể tiêu vong.

Và James Howden nói, ‘ Nếu việc này được thực hiện, tôi cần được cử tri ủy nhiệm. Có nghĩa là tôi phải thắng trong cuộc tranh cử.’

Tổng thống nói, ‘ Tôi chờ đợi việc đó. Sớm chứ ?’

‘ Theo tình hình, tôi có thể nói là vào đầu tháng sáu.’

Tổng thống gật đầu, ‘ Tôi cũng thấy ông không thể làm nhanh hơn được.’

Howden nói rõ, ‘ Sẽ có một cuộc vận động ngắn. Chúng tôi sẽ bị phản đối dữ dội. Vì vậy tôi phải đề nghị đưa ra những điểm đặc biệt.’

Arthur Lexington xen vào, ‘ Thưa Tổng thống, tôi chắc chắn là với tư cách một nhà chính trị thực tế, ông hẳn thấy điều đó cần thiết như thế nào.’

Tổng thống cười ha hả, ‘ E là tôi phải đồng ý vì sợ các ông sẽ bắt tôi để đòi tiền chuộc. Vậy cho phép tôi nói : vâng, tôi chắc chắn các ông sẽ bị phe đối lập dồn vào chân tường, nhưng xét cho cùng với tất cả chúng ta ở đây, không có gì mới lạ cả. Dù gì đi nữa, Jim, ông sẽ thắng thôi, tôi chắc chắn vậy. Nhưng còn những người khác – phải, tôi hiểu mà.’

Howden nói, ‘Có nhiều vấn đề lắm.’

Tổng thống ngửa người ra sau trong chiếc ghế xoay, ‘ Khai hỏa đi !.’

Giọng Howden trong trẻo, rõ ràng, ông chấp nhận khổ nhục để làm rõ ràng, nhưng những sự cân bằng cần có việc thảo luận cân bằng, ‘ Kỹ nghệ và công việc làm ở Canada phải được bảo đảm an toàn sau Hiệp ước Liên minh. Đầu tư của Hoa kỳ và sản xuất ở Canada phải tiếp tục và mở rộng. Chúng tôi không cần hãng General dời đi vì liên minh thuế quan, không muốn kết hợp với Detroit, Ford hay Dearborn. Các nền kỹ nghệ nhỏ cũng phải tương tự.’

Tổng thống vừa nói vừa ve vẩy chiếc bút chì dưới gậm bàn, ‘ Tôi đồng ý. Kỹ nghệ yếu kém là thất lợi mười mươi. Có thể làm một cái gì đó và tôi có thể nói với ông rằng các ông sẽ được ủng hộ nhiều hơn về kỹ nghệ, chứ không ít đi.’

‘ Bảo đảm đặc biệt chứ ?’

Tổng thống gật đầu. Người ở Bộ Thương mại của chúng tôi cùng Bộ Tài chánh và Mậu dịch của các ông có thể tìm được một công thức về thuế đáng khích lệ.’

Đô đốc Rapopport và Arthur Lexington ngồi cạnh đang ghi chép vào sổ tay.

Từ chỗ ngồi đối diện với Tổng thống, Howden đứng dậy, quay đi rồi quay lại. Ông nói, ‘ Về nguyên liệu thô, Canada sẽ kiểm soát các giấy phép khai thác và chúng tôi cần có sự bảo đảm để tránh việc cướp bóc. Không có cơ may nào cho người Mỹ cả - lấy đi mọi thứ để sản xuất ở nơi khác.’

Đô đốc Rapopport mỉa mai, ‘ Các ông đã chuẩn bị đủ để bán các nguồn nguyên liệu thô trong quá khứ rồi – nếu giá cao.’

Howden quát trả, ‘ Đó là quá khứ. Chúng ta đang bàn về tương lai.’ Và ông bắt đầu hiểu vì sao viên phụ tá Tổng thống lại bị thù ghét nhiều đến thế.

Tổng thống xen vào, ‘ Thôi. Không có gì cả. Hẳn sẽ còn có những ngành chế tác phụ thuộc nữa về điểm này và nó sẽ giúp cho cả hai nước. Tiếp đi !’

Howden nói, ‘ Những hợp đồng quốc phòng và việc mua viện trợ ngoại quốc. Canada sẽ cần thêm vài ngành sản xuất chính – phi cơ và tên lửa, chứ không phải đinh ốc với bù loong.’

Tổng thống thở dài, ‘ Phải trả giá đắt cho việc vận động Quốc hội chúng tôi. Nhưng dù sao chúng tôi cũng sẽ làm.’ Lại ghi chép.

Howen ngồi xuống và nói, ‘ Tôi muốn có một vị Bộ trưởng của tôi ở lại đây trong tòa Bạch ốc, cùng một người nào đó thân thiết với ông để diễn đạt quan điểm của hai chúng ta.’

Tổng thống nhận xét, ‘ Tôi đã dự tính cho ông điều tương tự. Ông còn gì khác không ?’

Thủ tướng nói, ‘ Lúa mì ! Các nhà xuất cảng và và giá hạ của các ông đã chiếm hết những thị trường lớn vốn là của chúng tôi. Hơn nữa, Canada không thể cạnh tranh với tình hình sản xuất được trợ giá của các ông.’ Tổng thống liếc nhìn Rapopport, ông này suy nghĩ một chút rồi phát biểu, ‘ Tôi nghĩ là chúng tôi có thể bảo đảm không can thiệp, làm ảnh hưởng tới trao đổi mậu dịch của Canada và đoan chắc rằng thặng dư của Canada – theo con số năm ngoái – sẽ được báo trước

Tổng thống vui vẻ nhướng mày một cách kỳ quặc với Howden, ‘ Thế nào ?’

Thủ tướng suy nghĩ và nói một cách cẩn thận, ‘ Tôi muốn chấp nhận phần đầu trong cuộc trao đổi này, còn phần hai phải bàn luận thêm. Nếu sản xuất của các ông gia tăng, thì của chúng tôi cũng vậy, có bảo đảm tương ứng.’

Vẻ lạnh lùng, Tổng thống hỏi, ‘ Jim không phải là ông hơi ép một chút sao ?’

Howden nhìn thẳng vào mắt Tổng thống, ông không có ý nhượng bộ thêm. Ngoài ra, ông sắp nêu ra yêu cầu lớn nhất của mình, ‘ Tôi không nghĩ vậy.’

Yên lặng. Rồi Tổng thống gật đầu, ‘ Tốt lắm – sẽ thương thuyết.’

Họ tiếp tục thảo luận – về mậu dịch, kỹ nghệ, tình trạng việc làm, các mối bang giao quốc tế, các hoạt động lãnh sự, tỉnh hình hối đoái, kinh tế nội địa, thẩm quyền của tòa án dân sự Canada đối với lực lượng Hoa kỳ… những nhượng bộ của Thủ tướng trong từng trường hợp đều được trân trọng. Cũng có vài sửa đổi nhỏ, cũng có khoản phải bàn bạc thêm, còn phần lớn đều thông qua. Howden nghĩ, thật ra không có gì phải ngạc nhiên. Hẳn đã có dự liệu trước những gì đang diễn ra và Tổng thống tiến hành cuộc đàm phán đã chuẩn bị trước nhanh chóng và chủ động. Nếu thời gian vẫn bình thường – như bất kỳ thời gian nào trong lịch sử, James Howden lý luận vậy – những gì ông nhượng bộ sẽ phá bỏ các chướng ngại cho sự phát triển của Canada mà các chính phủ trước đã tìm kiếm trong nhiều thế hệ. Nhưng – ông buộc phải nhắc mình – thời gian không bình thường và tương lai không ổn định.

Đến giờ ăn trưa. Họ cắm cúi ăn, thịt bò nướng ướp lạnh, sà lách và cà phê trong văn phòng Tổng thống.

Để tráng miệng, Thủ tướng nhấm nháp thỏi chocolate ông đã bỏ túi trước khi rời tòa nhà Blair. Đó là một trong những món tòa đại sứ Canada đã gởi đến hôm trước, bạn bè và người thân đều biết tính thích đồ ngọt của Thủ tướng.

Và sau đó là giây phút James Howden chờ đợi.

Ông đã yêu cầu một bản đồ vùng Bắc Mỹ và trong khi dùng bữa trưa, tấm bản đồ được treo lên tường đối diện bàn Tổng thống. Đây là loại bản đồ chính trị tỉ lệ lớn, vùng lãnh thổ Canada tô màu hồng, Hoa kỳ màu nâu đậm và Mexico màu xanh lục. Biên giới Canada – Hoa kỳ là một đường màu đen dài, nổi rõ lên ở giữa. Cạnh bản đồ, một cây gậy để chỉ đặt dựa vào tường.

James Howen nói một cách thẳng thắn với Tổng thống, ‘ Tyler, như ông đã nhận định một, hai tiếng trước, các đường biên giới không phải là bất biến. Chúng tôi , Canada – nếu như Hiệp ước Liên minh được thể hiện thành luật ở cả hai nước chúng ta – đã sẵn sàng chấp nhận sự thay đổi biên giới như một yếu tố trong đời sống. Vấn đề là : còn các ông ?’

Tổng thống chồm tới, lông mày nhíu lại, ‘ Jim. Chắc là tôi không hiểu kịp ông.’ Bộ mặt Đô đốc Rapopport bất động.

Thủ tướng nói, một cách cẩn thận. ‘ Khi cuộc chiến tranh nguyên tử bắt đầu, chuyện gì cũng có thể xảy ra. Chúng ta có thể chiến thắng, cũng có thể bị đánh bại và xâm chiếm, trong trường hợp đó, không một kế hoạch hiện thời nào cứu vớt gì được. Cũng có thể, trong một thời gian ngắn, chúng ta rơi vào chỗ sức tàn lực kiệt, cả kẻ thù cũng như thế, cũng tan tác và vô vọng như chúng ta.’

Tổng thống thở dài, ‘ Tất cả các chuyên viên của chúng tôi đều cho tôi biết, thật ra việc chúng ta tiêu diệt lẫn nhau chỉ là vấn đề ngày một ngày hai. Có trời mới biết họ nói đúng tới mức nào, nhưng người ta phải

dự liệu chắc chắn một kế hoạch nào đó.’

Howden mỉm cười vì một ý nghĩ thoáng qua đầu ông , ‘ Tôi biết ông muốn nói gì về các chuyên viên.

Người thợ cắt tóc của tôi có giả thiết là sau một trận chiến nguyên tử, trái đất sẽ bị nứt ra ở giữa và vỡ thành nhiều mảnh. Có lúc tôi tự hỏi sao tôi lại không đưa anh ta vào Bộ quốc phòng.’

Arthur Lexington thêm. ‘ Điều thực tế ngăn không cho ta làm thế là y là một tay thợ cắt tóc quá giỏi.’

Tổng thống cười. Đô đốc Rapopport nhăn mặt lại thành một cái gì giống như cười.

Nghiêm mặt lại, Thủ tướng nói tiếp, ‘ Về mục đích hiện tại, tôi nghĩ là chúng ta phải cứu xét đến tình trạng sau chiến tranh với giả thiết là chúng ta không bị đánh bại.’

Tổng thống gật đầu, ‘ Tôi đồng ý.’

Howden nói, ‘ Trong trường hợp đó, theo tôi, có hai khả năng. Thứ nhất, cả hai chính phủ, Canada và

Mỹ - có thể phải ngừng hoạt động hoàn toàn, tất cả luật lệ coi như ngừng tồn tại. Như thế, những gì ta nói hoặc làm ở đây đều vô ích vào thời điểm đó; và tôi giả định, dù gì đi nữa, không còn ai trong căn phòng này còn ngồi lại như những nhà quan sát.’

Ông nghĩ, chúng ta nói về những điều ấy quá thường xuyên, sự sống và cái chết, sự tồn tại và hủy diệt, ngọn nến sáng lên, ngọn nến tắt đi. Thế mà mãi tận thâm tâm, chúng ta vẫn không bao giờ chấp nhận sự thực. Lúc nào chúng ta cũng cho rằng một điều gì đó hay một cách nào đó sẽ chận đứng cái kết thúc sau cùng.

Tổng thống lặng lẽ đứng lên. Quay lưng lại, ông kéo bức màn sang bên để nhìn xuống bồn cỏ trong tòa Bạch ốc. Howden để ý thấy mặt trời đã lặn; những lớp mây tằng đã phủ đầy trời.

Không quay lại, Tổng thống nói, ‘ Jim, ông có nói đến hai khả năng.’

Howden thừa hận. ‘ Phải, theo tôi khả năng thứ hai có thể xảy ra hơn .’

Tổng thống rời cửa sổ, quay lại ghế. Howden nghĩ, bộ mặt ông ta có vẻ mệt mỏi hơn trước.

Đô đốc Rapopport hỏi, ‘ Điểm thứ hai ông nói là gì ?’ Giọng ông như muốn nói, ‘Tiếp đi chứ !’

Howden nói. Giọng đều đều, ‘ Khả năng đó là cả hai chính phủ chúng ta sẽ còn tồn tại với một mức độ nào đó, nhưng Canada vì ở kề cận với kẻ thù, sẽ gánh chịu thiệt hại nặng nề hơn.’

Tổng thống nhẹ nhàng nói , ‘ Jim, tôi thề trước Chúa với ông rằng chúng tôi sẽ cố gắng hết sức … cả trước và sau đó.’

Howden nói, ‘ Tôi biết, và chính là “ về sau đó” là cái tôi đang ngẩm nghĩ. Nếu còn một tương lai cho Canada, các ông phải trao cho chúng tôi chìa khóa.’

‘ Chìa khóa gì ?’

James Howden nói một cách giản dị, ‘ Alaska. Alaska chính là chìa khóa.’

Ông ý thức nhịp thở của mình, nhận ra từ bên ngoài những âm thanh đang tan loãng ra đột ngột : tiếng còi xe xa xôi, mơ hồ; những giọt mưa đầu tiên rơi xuống, một con chim chiêm chiếp êm đềm. Ông nghĩ một cách rối rắm, Arthur Lexington có thể biết đó là loại chim gì … Arthur Lexington, một nhà điểu học… Ngài Arthur Edmond Lexington, Đại Tư vấn, Cử nhân Văn chương, Tiến sĩ Luật, Bộ trưởng Ngoại giao, uy quyền thể hiện trên từng thông hành Canada… ‘ Nhân danh Nữ hoàng, cho phép người mang thông hành này được tự do đi lại … được giúp đỡ và bảo vệ.’ Arthur Lexington, … giờ đang đối mặt, thách thức với chính mình, James Howden, quyền lực và sự hợp nhất của Hoa kỳ.

Ông lập lại trong trí, ông phải giao Alaska cho chúng tôi. Alaska là chìa khóa.

Yên lặng. Bất động.

Đô đốc Rapopport ngồi cạnh Lexington trên trường kỷ, không cử động, vẻ lạnh lùng, vô cảm hiện trên bộ mặt nhăn nhúm như da dê, và cái đầu ngoại khổ. Chỉ có đôi mắt sắc như dao với cái nhìn băng giá. Hãy mau lên… đi tới ngay vấn đề … đừng phí thời gian nữa… can đảm lên chứ…!

Ông hãy can đảm … hãy can đảm đối mặt qua cái bàn có cắm lá cờ kia, với ông chủ của căn phòng uy quyền nhất trên thế giới … với chính mình. Lãnh tụ của một quyền lực nhỏ hơn, kém hơn – vẻ ngoài thì bình thản nhưng bên trong thì sôi động, vì yêu cầu phi lý và quá sức ấy đã được nói ra.

Ông nhớ lại cuộc trao đổi giữa ông và Arthur Lexington mười một ngày trước, hôm trước ngày họp Nội các. Lexington đã nói, ‘ Người Mỹ sẽ không bao giờ đồng ý, không bao giờ. Ông đã trả lời, ‘ Nếu họ ở trong tình thế khá là tuyệt vọng, tôi nghĩ có lẽ họ phải chấp nhận thôi.’

Alaska. Alaska là chìa khóa.

Đôi mắt Tổng thống đang nhìn. Chúng phản chiếu sự không tin tưởng.

Và vẫn là yên lặng.

Sau một quãng thời gian tưởng như là vô tận, Tổng thống xoay qua xoay lại trên nghế. Và ông nói đều đều, ‘ Trừ phi là tôi hiểu lầm, còn thì tôi không thể nào tin rằng ông nói một cách nghiêm túc.’

James Howden nói, ‘ Tôi chưa bao giờ nói nghiêm túc hơn thế, trong suốt cuộc đời chính trị của tôi.’

Rồi đứng lên, ông nói một cách mạnh mẽ va rõ ràng, ‘ Tyler, hôm nay, ông là người nói đến “ thành trì chung” của chúng ta; cũng chính ông tuyên bố rằng nền chính trị của chúng ta phải liên quan với nhau “ như thế nào” hơn là với “nếu”; ông là người xác địmh tính cách khẩn cấp; sự thiếu hụt thời gian. Bây giờ, tôi nói với ông, nhân danh chính phủ Canada rằng chúng tôi đồng ý với tất cả những gì ông nói. Nhưng tôi cũng nói với ông rằng, vì sự tồn tại của chính chúng ta, và điều này chúng tôi đã quyết định nếu Hiệp ước Liên minh có cơ hoàn tất – Alaska phải thuộc về người Canada.’

Tổng thống nói, giọng thiết tha và thuyết phục, ‘ Jim, hãy tin tôi, điều đó không bao giờ thực hiện được.’

‘ Ông điên rồi !’ Đó là Đô đốc Rapopport , mặt đỏ bừng.

Howden nói như ném từng chữ ra giữa phòng. ‘ Có thể thực hiện được ! Và tôi không điên. Tôi khỏe mạnh hoàn toàn. Đủ khỏe mạnh để muốn đất nước tôi tồn tại, đủ khỏe mạnh để chiến đấu cho nó – như, nhờ Chúa, tôi sẽ phải chiến đấu.’

‘ Nhưng không phải bằng cách này …!’

‘ Nghe tôi đây !’ Howden nhanh nhẹn nhảy tới bức bản đồ và cầm lấy cây gậy chỉ một cách cương quyết. Ông khoác đầu gậy thành một hình vòng cung, từ Đông sang Tây, theo vĩ tuyến 49, ‘ Giữa đây và đây,’ ông vạch một đường thứ hai theo vĩ tuyến 60 – ‘ các chuyên viên của các ông và của chúng tôi đã báo cho chúng ta biết rằng, sẽ bị tàn phá, hủy diệt – nếu như chúng ta may mắn – thì có thể là, từng mảng lớn ngang qua vùng đất này, cũng có thể là toàn bộ, nếu như chúng ta không may. Vì thế, cơ may duy nhất của chúng tôi để xây dựng lại sau đó, hy vọng độc nhất của chúng tôi, để củng cố bất cứ cái gì còn lại của Canada, là thiết lập một tiêu điểm mới, một trung tâm mới của quốc gia nằm ngoài vùng bị tàn phá và cho tới thời điểm đó chúng tôi có thể tập trung lại và lùi về phía sau, nếu như còn làm được…’

Thủ tướng ngừng lời, quan sát những người khác một cách dữ dội. Tổng thống dán mắt lên bản đồ. Đô đốc Rapopport há miệng như muốn xen vào, rồi lại ngậm lại. Arthur Lexington kín đáo liếc xéo viên Đô đốc.

Howden tiếp, ‘Việc tập trung lãnh thổ của Canada hẳn phải thỏa mãn ba yêu cầu chính. Nó phải ở phía nam vùng cây cối và vùng dưới bắc cực; nếu không thế, các phương tiện liên lạc và hỗ trợ cho sinh hoạt sẽ vượt quá khả năng của chúng tôi. Thứ hai, vùng đất này phải là phía tây khu vực đặt hỏa tiễn phối hợp với miền nam của chúng tôi ; và thứ ba, đó phải là một nơi mà thiệt hại là bằng không hoặc rất nhẹ. Phía bắc vĩ tuyến 49 chỉ có một nơi thỏa mãn tất cả yêu cầu này – Alaska.

Tổng thống nhẹ nhàng hỏi, ‘ Làm thế nào mà ông đoan chắc được thiệt hại ?’

Howden đặt cây chỉ dựa vào tường. Ông nói, ‘ Nếu, vào lúc này, tôi phải chọn một nơi nào an toàn nhất ở bán cầu bắc trong một cuộc chiến tranh nguyên tử, nó phải là Alaska. Nó được bảo vệ chống lại xâm lăng. Vladivostok, mục tiêu chính ở gần nhất, cũng cách đến 3.000 dặm. Thiệt hại, do các cuộc tấn công của cả Sô viết và chính chúng ta là không thể. Cũng chắc chắn như bất kỳ chuyện gì có thể - Alaska sẽ vượt qua được.

Tổng thống nói, ‘ Tôi nghĩ là tôi đồng ý với ông – ít nhất về điều đó. Rồi ông thở dài, ‘ Nhưng còn những điều khác … đó là một ý tưởng thiên tài – và tôi phải thừa nhận một cách thành thật, rất nhiều điều là có ý nghĩa . Nhưng chắc chắn ông phải thấy cả tôi lẫn Quốc hội đều không thể bán rẻ một quốc gia trong Liên minh.’

James Howden lạnh lùng đáp, ‘ Trong trường hợp đó, thì chính phủ tôi càng có ít lý do hơn để bán rẻ một đất nước.’

Đô đốc Rapopport khịt mũi giận dữ, ‘ Hiệp ước Liên minh sẽ không đề cập đến một chuyện bán rẻ nào hết.’

 Arthur Lexington xen vào ngay, ‘ Chuyện đó khó mà thành sự thật được. Canada sẽ phải trả một giá đắt.’

Giọng viên Đô đốc cất lên sắc bén, ‘ Không ! Còn lâu mới có chuyện trả giá, đó là một Hiệp ước quá dễ dãi dành cho một đất nước tham lam, nhút nhát, ngụy quân tử… Các ông nói đến việc tái thiết Canada, nhưng sao lại lo lắng ? Hoa kỳ đã làm việc đó cho các ông một lần từ trước; chúng tôi có lẽ sẽ làm một lần nữa.’

James Howden đã ngồi lại vào ghế. Thì bây giờ, mặt ông bừng bừng sắc giận. Ông nhảy dựng lên.

Giọng ông lạnh như băng, ‘ Tyler, tôi không tin là tôi phải nghe chuyện này.’

Tổng thống bình tĩnh nói, ‘ Không, Jim – tôi không tin ông phải nghe đâu . Trừ khi chúng ta đồng ý nói một cách rõ ràng. Đôi khi có những điều tốt hơn nên nói ra, có những điều thì ngược lại.’

Điên lên vì giận, Howden nộ khí xung thiên, ‘ Tôi có phải nghĩ rằng ông đã ký tên vào sự xúc phạm xấu xa đó ?’

‘ Nào, nào, Jim ! Tôi thừa nhận rằng những gì đã nói có lẽ đã được nói một cách khôn ngoan, nhưng đó không phải là cung cách của Levin, cho dù nếu ông muốn, tôi sẵn sàng xin lỗi vì cách dùng từ của ông ấy.’ Giọng nói êm ái lan qua bàn đến tai Thủ tướng, vẫn còn đang đứng. ‘ Nhưng tôi cũng phải nói ông ấy đúng một điểm là Canada luôn luôn đòi hỏi quá nhiều. Ngay cả bây giờ, dù với tất cả những gì chúng tôi đã dành cho trong Hiệp ước Liên minh, cũng vẫn đòi hỏi thêm nữa.’

Arthr Lexington đã cùng đứng lên với Howden, ông bước đến cửa sổ, rồi quay lại, dán mắt vào Đô đốc

Rapopport, ông nhận xét, ‘ Có lẽ, đó là vì chúng tôi được ban tước để đòi hỏi thêm nữa.’

‘ Không !’ Lời đáp của viên Đô đốc phóng ra như một mũi kim châm. ‘Tôi nói rằng đất nước ông là một đất nước tham lam và ông cũng thế.’ Giọng sắc nhọn của ông rít lên, ‘ Ba mươi năm trước, các ông đòi hỏi một tiêu chuẩn sống như người Mỹ, nhưng lại đòi được ngay trong một đêm. Các ông cố tình lờ đi rằng những tiêu chuẩn Mỹ cần có một thế kỷ mồ hôi và thắt lưng buộc bụng mới tạo dựng được. Thay vì thế, các ông mở cái kho tài nguyên phong phú mà các ông dành dụm được, rồi các ông để cho người Mỹ vào, sử dụng quyền trưởng tử của các ông, nhận lấy những hiểm nguy và đóng vai chính bằng cách đó , các ông mua được tiêu chuẩn sống của các ông – rồi cười khì vào những thứ chúng tôi coi như của chung.’

Tổng thống khiển trách, ‘ Này, Levin…’

Lờ đi như khôg nghe, viên Đô đốc tiếp tục ào ào, ‘ Đồ ngụy quân tử, tôi nói thế đấy ! Các ông bán quyền trưởng tử, rồi đi tìm nó bằng cách nói đến tính cách Canada riêng biệt. Phải mà, tôi từng có tính cách Canada đây, nhưng các ông đã làm hỏng và đánh mất nó rồi.’

Giận quá, James Howden tuyên bố, ‘ Không phải tất cả đều dễ dàng. Đây là danh sách từ hai cuộc thế chiến mà ông có nghe đấy : St Eloi, Vimy, Dieppe, Sicily, Normandy, Caen, Falaise…’

Viên Đô đốc quát trả, ‘ Luôn luôn có ngoại lệ. Nhưng tôi cũng nhớ rằng trong khi Hải quân đang hấp hối ở Biển San hô, thì Quốc hội Canada còn đang thảo luận lệnh cưỡng bách tòng quân – điều mà các ông chưa bao giờ làm.’

Howden phẫn nộ, ‘ Còn những yếu tố khác nữa, Quebec, sự thỏa hiệp…’

‘ Thỏa hiệp, nước đôi, hèn nhát… có khác quái gì nhau, khi đó là trò đùa của Nhà nước ? Và các ông vẫn còn nước đôi vào cái ngày mà Hoa kỳ bảo vệ cho Canada bằng vũ khí nguyên tử - thứ khí giới mà các ông vui sướng là chúng tôi có nó, nhưng lại tỏ ra xấu hổ khi tự mình sử dụng.’

Viên Đô đốc đã đứng lên và đối diện với Howden. Ngài Thủ tướng đang cố kiềm nỗi uất hận đang trào lên , cố kiềm một cú đấm vào bộ mặt này.

Tổng thống phá vỡ sự yên lặng thù địch này, ông đề nghị, ‘ Để tôi nói các ông nghe cái này. Sao hai ông không để sáng sớm mai, ra sông Potomac, Arthur và tôi sẽ là cặp thứ hai, ta mượn súng lục và gươm của Viện Smithsonian.’

Lexington khô khan hỏi, ‘ Theo ông, nên lấy loại nào đây ?’

Tổng thống đáp, ‘ À, nếu tôi là Jim, tôi sẽ lấy súng. Chiếc tàu duy nhất Levin từng chỉ huy lại rất thiếu súng.’

Viên Đô đốc lưu ý, ‘ Chúng tôi có quá ít đạn.’ Lần đầu tiên, một nụ cười thoáng hiện trên bộ mặt nhăn nheo của ông. ‘ Khi ấy, ông là Bộ trưởng Hải quân , phải không ?’ Tổng thống nói, ‘ Tôi làm rất nhiều việc, khó nhớ lắm.’

Dù sự căng thẳng đã dịu bớt, Howden vẫn phẫn uất. Ông muốn trả thù; đáp trả từng câu từng chữ, đúng y như những gì đã nói ra; tấn công, khi ông đã sẵn sàng. Lời buộc tội là tham lam từ một đất nước đã thừa mứa vì giàu có … Hoa kỳ, một nước đã thực thi chính sách tự cô lập cho đến khi bị buộc phải giương súng lên, lại dám nói là mình hèn nhát … Ngay cả sự do dự của Canada cũng còn tốt hơn sự khờ khạo xuẩn ngốc trong chính sách ngoại giao của Mỹ, tin tưởng tuyệt đối vào đồng đô la như một câu trả lời cho mọi vấn đề. Hoa kỳ với bầu nhiệt huyết căng phồng lúc nào cũng đúng, nó nhất quyết không chịu tin vào những quan điểm khác, những hệ thống chính quyền đồng minh, đôi khi cũng có ưu điểm riêng của họ, cứ hỗ trợ một cách ương ngạnh, bất tín vào những thể chế ngoại quốc… Còn ở quê nhà, những cuộc đăng đàn diễn thuyết thao thao bất tuyệt về tự do của cùng một cái miệng ấy lại có mùi vị bất đồng… và nhiều, nhiều nữa… Phải nói đây … dữ dội, tàn nhẫn … James Howden tự kiềm chế.

Đôi khi, ông nghĩ, yên lặng cũng là một tính cách của chính trị gia. Không hề có một vựng tập nào liệt kê lầm lỗi của một phía, và hầu hết những gì Đô đốc Rapopport đã nói là sự thật dù chói tai.

Ngoài ra, dù Rapopport là gì đi nữa, ông ta không phải là thằng ngốc. Rất khôn ngoan, Ngài Thủ tướng có khả năng diễn dịch tuyệt vời. Ông tự hỏi, viên Đô đốc này có cố làm mình mất thăng bằng không ? Có lẽ có, có lẽ không; nhưng cãi vã cũng chẳng ích gì. Ông quyết định sẽ không bỏ sót điều gì ngay từ đầu.

Phớt lờ những người khác, ông quay lại đối diện với Tổng thống và nói một cách bình thản, ‘ Tyler, tôi muốn phải thật rõ ràng, rằng, thất bại và việc nhượng bộ về vấn đề Alaska không có nghĩa là không đạt được thỏa thuận giữa hai chính phủ chúng ta.’

Tổng thống hình như đã bình tĩnh lại, tỏ ra vững vàng hơn bao giờ, ‘ Jim, ông phải thấy giải quyết toàn bộ vấn đề là không thể.’ Howden để ý thấy những ngón tay phải của ông gõ rất nhanh trên mặt bàn. Và ông nói tiếp, ‘ Ta không thể lùi trở lại – ta hãy nói sang những điều kiện khác. Có lẽ còn nhiều điểm ta có thể thông qua, những điểm liên quan đến lợi thế của Canada.’

Howden cương quyết lắc đầu, ‘ Không. Tôi không thấy cái gì là không thể và thứ hai, chúng ta hãy nói đến Alaska hay không gì cả.’

Giờ thì ông bị thuyết phục là – từng có một nỗ lực làm ông mất kiềm chế. Tất nhiên, cho dù có thành công, phía bên kia cũng chẳng được gì. Nhưng ngược lại, có lẽ ông phải úp tay mình xuống tới chừng nào mà ông chuẩn bị phải thỏa hiệp nếu bị bắt buộc. Tổng thống là một nhà thương thuyết xảo quyệt tinh ranh, sẽ không bao giờ bỏ sót một dấu hiệu nào, dù là nhỏ nhất.

Thủ tướng vuốt nhẹ chóp mũi, nói , ‘ Tôi muốn cho các ông biết những điều kiện mà chúng tôi đã nghĩ kỹ. Ưu tiên số một, phải có tự do bầu cử ở Alaska, có giám sát của hai chính phủ, chỉ có bỏ phiếu “ thuận “ hay “ không” mà thôi.

Tổng thống nói, ‘ Các ông sẽ không bao giờ thắng được.’ Nhưng giọng gần như thì thào lại kém quyết đoán hơn bao giờ hết. Tận sâu thẳm, Howden có cảm giác, mà không hiểu tại sao, quyền chi phối cuộc thương thuyết này đã nghiêng về phía ông. Ông nhớ lại lời Arthur Lexington vào sáng sớm : ‘ Nói thẳng ra , chúng ta ở tư thế của người bán. Những nhượng bộ mà ta đưa ra thì Hoa kỳ rất cần, cần xiết bao.’

Howden nói, ‘ Nói thật, tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ thắng, và chúng tôi sẽ đi ngay vào trận chiến đã dàn ra đó. Rất sẵn có tư tưởng ủng hộ Canada ở Alaska và càng lúc càng nhiều. Còn cái gì hơn nữa, dù các ông có biết hay không, vụ nổ sẽ làm tiêu tan tính cách quốc gia. Các ông đã không làm gì nhiều cho họ như họ mong đợi, và họ đang cô đơn ở đó. Nếu nhận trách nhiệm, chúng tôi sẽ tạo ra một trung tâm có hai chính phủ. Chúng tôi sẽ làm cho Juneau – hay có lẽ Anchorage – thành một thủ đô thứ hai của Canada. Chúng tôi sẽ tập trung phát triển Alaska cho nó làm đầu tàu của cả nước. Chúng tôi sẽ tạo cho người Alaska có cảm tưởng là không còn bị tách biệt nữa.’

Tổng thống lạnh lùng nói, ‘ Rất tiếc. Tôi không thể chấp nhận những chuyện đó.’

Howden biết rằng đây là giây phút ngửa bài. Ông nói một cách đơn giản, ‘ Có lẽ các ông sẽ sẵn lòng tin , nếu tôi cho các ông biết mục tiêu đầu tiên phải đạt được, không phải từ Canada mà từ chính Alaska.’

Tổng thống đứng bật dậy. Mắt ông dán chặt vào Howden. Giọng ông lanh lảnh, ‘ Xin ông giải thích.’

Thủ tướng tuyên bố, ‘ Hai tháng trước, tôi đã bí mật thỏa thuận được với phát ngôn nhân của một nhóm những lãnh tụ của Alaska. Đề nghị tôi đưa ra cho các ông hôm nay chính là đề nghị được đưa ra cho tôi vào thời điểm ấy.’

Tổng thống cục cựa ở sau bàn. Mặt ông sát gần mặt Howden. Ông nói, giọng như không tin nổi, ‘ Tên. Tôi muốn biết những cái tên này.’

Arthur Lexington đưa ra một tờ giấy. Thủ tướng cầm lấy và trao cho Tổng thống. ‘ Tên đây.’

Vẻ hoài nghi hiện trên mặt Tổng thống khi ông đọc tờ giấy này. Sau đó, ông đưa nó cho Đô đốc Rapopport.

Những lời thốt ra có âm thanh của do dự, ‘ Tôi sẽ không cố, tôi muốn nói, tôi không muốn cố dấu các ông là những cái tên và những thông tin này là một cú sốc khủng khiếp.’ Howden yên lặng, đợi chờ.

Tổng thống chậm chạp nói, ‘ Giả sử như, chỉ giả sử thôi nhé, có một cuộc tổng tuyển cử và các ông thua.’

‘ Như tôi đã nói, chúng tôi không có hy vọng. Chúng tôi đã đưa ra những để nghị hấp dẫn, như các ông đã đưa ra một Hiệp ước Liên minh thật hấp dẫn. Và các ông thúc dục bỏ phiếu thuận dựa trên nền tảng sự thống nhất và phòng thủ của Bắc Mỹ.’

‘Cặp lông mày nhướng lên, ‘ Tôi sao ?’

Howden khẳng định, ‘ Phải, Tyler. Đó là một phần trong thỏa thuận của chúng ta.’

Tổng thống nói dứt khoát, ‘ Cho dù là thế, các ông cũng thua thôi. Cử tri sẽ nói “không”.’

‘ Hẳn nhiên. Nếu điều đó xảy ra, chúng tôi sẽ chấp nhận quyết định này. Người Canada cũng phải tin ở chuyện được quyết định chứ .’

‘ Trong trường hợp đó, Hiệp ước Liên minh sẽ thế nào ?’

James Howden nói, ‘ Nó không bị ảnh hưởng gì cả. Với lời hứa của Alaska - hay ít nhất của cuộc bỏ phiếu - tôi có thể thắng được cuộc đầu phiếu ở Canada và là một ủy viên được chỉ định trong Hiệp ước Liên minh. Cuộc bỏ phiếu sẽ đến sau đó và cho dù kết quả ra sao sẽ không có chuyện quay trở lại.’

Tổng thống liếc nhìn Đô đốc Rapopport, bộ mặt ông này trơ như đá. Rồi, nửa nói nửa ngừng, ‘ Phải. Đó sẽ là một thỏa ước hợp hiến mang tính quốc gia… Nếu tôi đưa nó ra Quốc hội, tôi giả sử là những điều kiện không thể chấp nhận được…’

Howden nhấn mạnh, ‘ Có lẽ tôi phải nhắc các ông đến tuyên bố của các ông sự hỗ trợ về lập pháp. Tôi cho là ông đã nói, “ không có sự hợp pháp nào tôi muốn mà tôi không thể thông qua.”

Tổng thống đấm hai tay vào nhau, ‘ Chúa tôi, Jim ơi ! Ông sử đòn gậy ông đập lưng ông mới tài làm sao !’

Arthur Lexington sẽ sàng nói, ‘ Thưa Tổng thống, xin báo trước với ông, đầu ông ấy là một cái máy ghi âm đấy; đôi khi, ở nhà, chúng tôi thấy là nó lộn xộn kinh khủng.’

‘ Lạy Chúa, tôi cũng nghĩ thế ! Jim này, cho tôi hỏi ông một câu.’

‘ Xin cứ hỏi.’

‘ Tại sao ông tin rằng ông nắm chắc được những gì ông đòi hỏi ? Ông cần đến Hiệp ước Liên minh và ông biết rõ nó mà.’

James Howden nói, ‘ Vâng. Tôi nghĩ là chúng tôi nắm được. Nhưng thành thật mà nói tôi tin là các ông cần nó hơn và, như ông đã nói, thời gian là những gì phải tính đến.’

Yên lặng ngự trị trong căn phòng nhỏ. Tổng thống thở một hơi dài. Đô đốc Rapopport nhún vai quay đi. Tổng thống nói nhẹ nhàng, ‘ Giả sử, chỉ giả sử thôi nhé, tôi dồng ý với điều kiện của các ông, tất nhiên là có sự đồng ý của Quốc hội, làm thế nào các ông công bố nó ra ?’

‘ Một tuyên bố trước Hạ Nghị viện mười một ngày kể từ bây giờ.’

Lại yên lặng.

Những lời thốt ra do dự, khó khăn, ‘ Ông nên hiểu… Tôi chỉ giả sử. Nhưng nếu nó xảy ra, tôi bị buộc phải đưa ra tuyên bố tương tự trước Lưỡng viện Quốc hội. Ông cũng thừa nhận rằng hai lời tuyên bố này phải trùng khớp nhau.’

Howden nói, ‘ Vâng.’

Ông biết rằng ông đã thắng. Ở miệng ông là hương vị của chiến thắng.

 

3.

 

Trong cabin riêng chiếc Vanguard, Margaret Howden, bộ đồ xám – xanh sang trọng, nón nhung trên mái tóc xám quyến rũ, đang đổ hết đồ đạc trong túi xách lên mặt bàn đọc sách nhỏ trước chỗ ngồi. Vừa phân loại các tờ hóa đơn nhăn nheo của Mỹ và Canada – hầu hết là những hóa đơn nhỏ - bà vừa liếc nhìn chồng đang chăm chú đọc trang xã luận ra ngày lẻ của tờ Daily Star ở Toronto. Mười lăm phút trước, sau bữa tiệc chia tay do Phó Tổng thống tổ chức, đươc hộ tống bởi đội vệ binh danh dự của Hải quân Mỹ, chuyến bay đặc biệt của họ đã rời khỏi phi trường Washington. Giờ đây, trong ánh nắng của buổi sớm, trên những tầng mây tích, họ đang lướt nhẹ về phương bắc, đến Ottawa, về nhà.

Howden vừa nói vừa lật sang trang, ‘ Em biết không, anh vẫn thường tự hỏi sao ta không để cho các tay ký giả viết xã luận lên nắm quyền điều hành đất nước. Họ có cách giải quyết mọi thứ.’ Và ông trầm ngâm, ‘ Cho dù, tất nhiên, nếu họ điều hành đất nước thì lấy ai viết xã luận đây.’

‘ Sao không phải là anh ?’ Margaret nói. Và bà xếp các tờ hóa đơn bên cạnh một chồng dồng bạc đã đếm sẵn, ‘ có lẽ có như thế, ta mới có nhiều thời gian với nhau hơn và em không phải đi mua sắm giết thời gian trong những chuyến công cán nữa. Ôi anh ! – E rằng em sẽ hoang phí lắm đây.’ Howden phá ra cười. Đặt tờ báo xuống, ông hỏi, ‘ Bao nhiêu ?’

Margaret kiểm lại số tiền đã đếm được dựa theo một danh sách viết bằng bút chì với các biên nhận đính kèm. Bà buồn rầu đáp, ‘ Gần 200 đô la.’

Ông muốn phản đối một cách nhẹ nhàng, rồi nhớ lại rằng ông đã không tiết lộ cho Margaret biết tình hình tài chánh mới đây nhất của họ. Phải, những đồng tiền đã tiêu đi; đâu là vấn đề phải lo lắng bây giờ. Hơn nữa, thảo luận về vấn đề tài chánh riêng của họ - điều luôn làm Margaret lo lắng – còn mất nhiều năng lượng hơn nữa. Thay vì thế, ông chỉ nói, ‘ Anh không được miễn thuế, nhưng em thì được. Vậy nên em được miễn thuế 100 đô la, chỉ phải khai phần còn lại và chịu một ít thuế.’

Margaret tuyên bố, ‘ Không. Em không làm đâu. Đó là điều vô lý nhất em từng nghe. Anh biết rõ là các nhân viên thuế vụ đâu có bao giờ đến gần chúng ta nếu anh không yêu cầu. Chức vụ của anh là là để đựoc hưởng đặc ân, sao không tận dụng nó ?’ Như thể theo bản năng, bà lấy tay che chồng đô la còn lại.

Ông kiên nhẫn nói tiếp, ‘ Cưng ơi – chúng cũng là trên cùng một căn bản nhưng khác về trường hợp – em biết anh cảm thấy thế nào về loại sự việc này không ? Bỗng nhiên anh tin rằng anh nên hành động như một người dân thường mà pháp luật chờ đợi là sẽ làm.’

Má đỏ ửng lên, Margaret nói, ‘ Tất cả những gì em có thể nói là anh quá ngây thơ.’

Ông nhẹ nhàng khẳng định, ‘ Có lẽ thế. Cũng như nhau thôi, đó là cách mà anh muốn người ta thực hiện.’

Một lần nữa, ông do dự không muốn giải thích kỹ hơn; chỉ rõ rằng sự khôn ngoan về mặt chính trị là luôn tỏ ra chân thật ngay với những điều nhỏ nhặt, ngay cả việc tránh không buôn lậu chút đỉnh, điều là hầu như người Canada nào cũng làm khi qua lại biên giới. Hơn nữa, ông luôn luôn ý thức được rằng với những người như ông, trong đời sống riêng rất dễ bị va vấp vì những điều vượt quá giới hạn mà nhiều khi rất không đáng kể. Vẫn có đó những cặp mắt soi mói, nhất là ở các đảng phái đối lập, chỉ rình chờ những sơ suất nhỏ nhất để rồi sau đó báo chí sẽ rất hả hê mà đăng tải. Ông đã từng chứng kiến nhiều chính trị gia bị xã hội săn đuổi, lăng mạ đến ê chề.

Ông gấp tờ báo lại và bỏ xuống.

‘ Đừng có hoảng lên thế, cưng ơi, cái vụ trả thuế chỉ một lần này thôi. Có lẽ sẽ không có bất kỳ thứ thuế nào – ngay cả thuế quan – ‘ ông đã nói vậy với Margaret, vào chiều hôm trước, lúc bàn đến những dự thảo lớn trong Hiệp ước Liên minh.

Vợ ông nói, ‘ Phải. Chắc chắn là em không ân hận về việc đó. Em luôn nghĩ đi diễu qua trước mắt bàn dân thiên hạ như thế là điều xuẩn ngốc – mở túi xách ra nói rõ từng món – giữa hai nước quá gần nhau về mọi hình thức.’

Howden mỉm cười nhưng nhất định là không diễn thuyết cho Margaret nghe về lịch sử biểu thuế của Canada, cái đã tạo nên những điều khoản cực kỳ ưu đãi trong Hiệp ước Liên minh. Ông nghĩ, trong khi dựa lưng vào cái ghế nệm bọc da êm ái, chúng đã là những điều khoản ưu đãi. Một lần nữa, như đã rất nhiều lần trong hai mươi bốn giờ qua, Howden lại nghĩ đến thành công không ngờ nỗi trong các cuộc thương thuyết ở Wshington.

Tất nhiên, cho dù sau cùng Tổng thống không đưa ra một dự thảo nào về yêu cầu liên quan đến Alaska, nhưng sẽ phải có một dự thảo về tổng tuyển cử ở Alaska, điều đó thì Howden chắc chắn. Ý tưởng này, đã hẳn, phải cần thời gian để chấp nhận. Lúc đầu, toàn bộ đề nghị - như đã phác thảo trong đầu Thủ tướng – hình như là thái quá và không thể đối với Washington. Nhưng xét kỹ thì nó là sự mở rộng hợp lý và phải chăng trong Hiệp ước Liên minh, Hiệp ước mà Canada đã chấp nhận thua thiệt khá nhiều.

Và cũng như cuộc tổng tuyển cử ở Alaska, tăng bội nhờ những hỗ trợ ông đã đạt được, Canada, đã tạo một đa số phiếu “thuận” hấp dẫn đến nỗi không thể nào từ chối được. Hơn nữa, đi xa hơn, ông sẽ tuyên bố bồi thường rộng rãi cho những người dân Alaska nào chọn cách không ở lại dưới chính thể mới, dù ông hy vọng hầu hết sẽ. Trong bất kỳ trường hợp nào, khi Hiệp ước Liên minh được thi hành, những biên giới giữa Alaska, Canada và phần còn lại của lục địa Hoa kỳ là không tưởng tượng nổi. Khác biệt ở Alaska chỉ còn là luật dân sự của Canada va nền hành chánh nào đây.

Yếu tố chính mà ông đã không bàn luận với Tổng thống là khả năng Canada, gần như chắc chắn bị hủy diệt, vẫn có thể hồi sinh, thời hậu chiến, và lại là thành phần mạnh hơn và quan trọng hơn trong Hiệp ước Liên minh. Nhưng việc đó và khả năng hiện thực của nó, chỉ thời gian mới trả lời được.

Tiếng động cơ phản lực rền rĩ khi chiếc Vanguard chao cánh về phía bắc. Nhìn qua cửa cabin, ông thấy vẫn là những cánh đồng xanh bên dưới họ.

Margaret hỏi, ‘ Jamie, ta đang ở đâu vậy ?’

Ông nhìn đồng hồ. ‘ Hiện giờ ta chỉ mới rời khỏi Maryland, anh chắc ta đang ở trên Pennsylvania. Sau đó là tiểu bang New York, rồi thêm dăm phút nữa là tới nhà.’

Margaret vừa nói vừa đẩy mấy tờ hóa đơn và tiền bạc ra, ‘ Em mong sao ở Ottawa không có tuyết. Em muốn bị cảm lạnh nữa rồi.’

Ông nghĩ một cách khôi hài : có những việc mà dần dần ta cũng muốn làm nữa. Lý tưởng nhất là tạo dựng ảnh hưởng tuy chậm nhưng chắc cho Hiệp ước Liên minh. Nhưng, cũng như bao giờ, thời gian thì quá thiếu và ông phải lợi dụng cơ hội để hành động cho nhanh.

May mắn là bây giờ ông có nhiều cái để mặc cả. Việc thu xếp cho Alaska, cộng thêm sự nhượng bộ quan trọng khác, là quá đủ để đặt trước Quốc hội và cử tri. Cùng với áp lực của thời gian, không cần phải dứt khoát cho lắm, ông tin rằng ông vẫn có thể thắng trong cuộc bỏ phiếu; và nhờ đó được đại diện trong Hiệp ước Liên minh.

Và dù có tách ra khỏi cuộc khủng hoảng, thời gian đã chín muồi. Mười năm hay chí ít năm năm trước, khi việc đi tìm cái gọi là Canada thống nhất, cùng với tất cả những tính chất ái quốc cực đoan của nó, lên tới cao độ, bất kỳ cái Hiệp ước Liên minh nào cũng có thể bị tẩy chay. Nhưng từ đó tính cách quốc gia đã thay đổi.

Tất nhiên, phía đối lập, do Bonar Deitz lãnh đạo sẽ chiến đấu tới cùng bằng bất cứ vũ khí nào. Nhưng ông chắc chắn ông sẽ đánh bại họ. Ngày nay ái quốc cực đoan đã được nhìn nhận đúng bản chất của nó – một sự hỉ xả đáng sợ; đáng sợ vì, một lúc nào đó, nó đã tách rời Canada khỏi đồng minh hùng mạnh nhất của nó trong một thế giới đầy hận thù. Bây giờ, những ràng buộc về văn hóa, lý tưởng, tình bạn và đôi khi cả tình yêu đã chạy về hai phía bắc và nam với tốc độ càng lúc càng tăng. Không phải là người ta ngừng phẩm bình về Hoa kỳ, trái lại Hoa kỳ thường xuyên là sự thất vọng của thân hữu và đồng minh. Nhưng ít nhất bên dưới nó, với tất cả mọi sai lầm, vẫn có sự thích hợp cơ bản rất thông thường – trái ngược với thói độc ác, ti tiện, oán thù ở đây đó khắp nơi trên thế giới.

Margaret cầm tờ Star lên và lật vài trang.

‘ Ô Jamie, có mục tử vi đây này. Anh đọc tuổi của anh chưa ?’

Quay đầu lại, ông cáu kỉnh trả lời, ‘ Chưa, và anh ước gì em đừng khơi lại chuyện đó nữa.’

Ông tự hỏi có phải Margaret đang tìm cách chọc tức ông để trả đũa vụ cãi cọ trước đó. Ông nghĩ, muộn rồi, tình càm giữa họ đã thành căng thẳng, có lẽ vì họ có quá ít thời gian bên nhau. Lần nói chuyện với nhau sau cùng là khi nào nhỉ ?... Ồ phải, buổi chiều cái ngày xảy ra biến cố ở dinh Toàn quyền. Giá như ông quan tâm nhiều hơn đến Margaret, nhưng điều đáng lo là, có quá ít giờ trong một ngày và quá nhiều việc quan trọng phải do chính ông làm. Có lẽ, khi một vài dự tính được giải quyết xong, hẳn sẽ nhiều thời gian hơn…

Margaret bực bội vò tờ báo, ‘ Chẳng hiểu gì cả ! Thế đấy ! Tờ Satar tự trọng đến mức phơi ba cái thứ này ra rồi đi in những chuyện láo khoét mỗi ngày.’

Chồng bà đáp. ‘ Có lẽ họ cũng xấu hổ đấy chứ. Nhưng nhờ có thế mới bán được báo. Vậy nên họ mới in ở những trang sau, hy vọng là không ai để ý trừ những người muốn đọc.’

‘ Nghe nay ! Jamie. Đây là lời đoán của anh hôm nay - tuổi Nhân Mã.’ Margaret đọc cẩn thận, đưa trang báo ra ánh đèn, ‘ Những rung động với tuổi Vệ Nữ quan trọng và tốt đẹp. Đừng lo về những nỗ lực của bạn; chúng đều tốt và sẽ thành hiện thực. Cứ tiếp tục, nhưng đừng mất niềm tin ở chính bạn. Nhưng hãy coi chừng các đám mây đang ngày càng lớn.’ Bà bỏ tờ báo xuống. ‘ Giẻ rách ! Giẻ rách phát sợ !’

James Howden nói, ‘ Phải. Đúng không ?’ Ông nghĩ, dẫu sao, cũng thật lạ : liên quan tới đám mây một lần nữa. Có phải là thời gian này trước đó, chỉ một tuần rưỡi trước : coi chừng một đám mây. Một câu trích từ Kinh Cựu ước, phải không ? Câu chuyện về Elijah, người đã nhìn thấy một đám mây nhỏ ngoài khơi… và sau đó được các thiên thần che chở, đã xức dầu thánh cho các vua; rồi sau đó nữa, phân chia các con sông ở Jordan và được đưa lên thiên đàng bằng một cỗ xe lửa. Nhưng với Elijah, đám mây là một điềm báo sức mạnh . Còn với ông nó là gì vậy ? Một điềm báo trước ? Điều gì ? Bỗng nhiên những lời bà lão Zeeder vọng lại… Cái ngày ra tòa ở Medicine Hat… Ta là một đứa bé mang tuổi Nhân Mã, cưng ạ. Ngươi sẽ thấy !

Margaret chua chát nói, ‘ Jamie?’

Đột nhiên ông lại tập trung vào suy nghĩ của mình, ‘ Gì đó ?’

‘ Anh đang nghĩ gì vậy ?’

Ông nói dối, ‘ Có gì đâu. Anh không nghĩ gì cả.’

Vài phút sau Margaret hỏi, ‘ Phi đoàn trưởng Galbraiths mời em đến buồng lái. Em nghĩ chắc em nên đi.’

Chồng bà gật đầu. ‘ Anh mong là em nên; và xin lỗi hộ anh.’

Ông liếc về phía cabin nơi có đồng hồ treo tường, ‘ Lúc nào em đi rồi, có lẽ anh muốn gặp anh chàng Prowse. Hẳn anh ta đang ngập đầu vì công việc hai ngày qua.’

Dù có sự hiện diện của các phụ tá, ba Bộ trưởng trong Nội các và ban tham mưu của ông, hiện đang ở cabin phía trước – Thủ tướng không gặp ai ngoại trừ Arthur Lexington trong thời gian ở Washington.

Margaret nói ,’ Được rồi. Em sẽ bảo anh ta vào.’

Elliot Prowse, từ cabin phía trước đi vào khi Margaret vừa ra, là một trong hai phụ tá thừa hành của Thủ tướng. Trẻ trung, đẹp trai, cường tráng, giàu và tự lập. tốt nghiệp hạng danh dự ở Đại học McGill, anh là một chính trị gia tập sự theo một cung cách mà các thanh niên đầy tham vọng ngày nay đang nhắm đến. Trong vài năm nữa anh sẽ bỏ công việc hiện tại và kiếm phiếu để vào Hạ nghị viện. Trong khi đảng đang lợi dụng chất xám và học vị của anh, còn anh thì thu lượm kinh nghiệm trong chính trường, những kinh nghiệm mà biết đâu sẽ đưa anh vào ngay một chức vụ nào đó trong Nội các.

James Howden không bao giờ biết chắc được ông thích Prowse nhiều hay ít; còn Prowse đôi khi, lại tỏ ra tận tâm quá mức cần thiết. Nhưng bây giờ sự hài lòng ra mặt của Thủ tướng về cuộc hội đàm ở Washington đã làm ông thấy mình nên tỏ ra rộng lượng. Phẩy tay chỉ người phụ tá ngồi vào ghế đối diện, ông hỏi, ‘ Elliot này, tôi cho là cậu đang nghĩ gì đó trong đầu.’

Prowse thận trọng ngồi xuống, thái độ tỏ ra nghiêm trang như thường lệ , ‘ Thưa Ngài, vâng. Nếu Ngài còn nhớ, tôi xin báo với Ngài là ngày hôm qua…’

Howden nói, ‘ Tôi biết mà. Và tôi rất tiếc phải tách cậu ra. Nhưng có nhiều vấn đề quan trọng – có một vài vấn đề cậu có biết đấy – mà tôi không lấy đâu ra thời giờ.’

Ông nghĩ là ông đã nhìn thấy một vẻ nóng nảy ở chàng trai. Phải rồi, đó là một cái gì mà anh phải học lấy trong chính trị : quen với các cuộc hội đàm, và rất nhiều khi là không cần thiết, nhưng nó là nguyên tắc của công việc.

Elliot Prowse nói, ‘ Ông Richardson và cô Freedeman đều có liên hệ với tôi. Về vụ nhập cư ở Vancouver.’

James Howden bừng giận, ‘Lạy Chúa tôi! Không! Tôi đã nghe quá đủ rồi, còn phải nghe cả đời sao đây!’

Prowse xem một tờ giấy trong tập hồ sơ anh mang vào, ‘ Hình như người ta đang nghe rất nhiều chuyện ở Ottawa.’

Howden nổi cáu, ‘ Bọn ngu xuẩn chúng nó không có gì khác để bận tâm sao ? Chúng không biết những chuyện gì khác – những chuyện quan trọng hơn – đang xảy ra trên thế giới sao ?’ Ông nghĩ việc công bố Hiệp ước Liên minh, sẽ quét sạch mọi chuyện nhập cư này khác ra khỏi dòng tin tức, khi nó xuất hiện, báo chí sẽ không còn chỗ cho việc gì cả. Nhưng còn sớm lắm…

Prowse vẫn có thói quen nhận câu hỏi một cách rành mạch, rõ ràng, ‘ Thưa Ngài, tôi không thể trả lời điều ấy. Nhưng tôi có số liệu dựa vào các điện tín và thư đã nhận về vấn đề này.’

Howden càu nhàu, ‘ Nói tôi nghe.’

‘ Từ khi Ngài rời Ottawa, và cho tới sáng nay, có 140 điện tín và 332 lá thư gởi tới cho Ngài. Chỉ trừ 2 điện tín và 18 lá thư, còn tất cả đều đứng về phía người trên tàu và chỉ trích Chính phủ.’

Howden lẩm bẩm, ‘ Phải. Ít ra thì cũng có 20 con người biết suy nghĩ.’

Elliot Prowse xem lại các ghi chú của mình, ‘ Cũng có vài tiến triển. Người trên tàu này rõ ràng là có luật sư, người này, ngày hôm trước, đã nhận được một chỉ thị tạm thời xin được đưa ra xét xử. Đơn thỉnh nguyện sẽ được xét ở Vancouver vào trưa nay.’

Howden mệt mỏi nói, ‘ Tòa sẽ ném nó ra ngoài. Đó là một đòn cũ xì trong nghề luật. Tôi đã từng sử dụng rồi.’

‘ Vâng, thưa Ngài. Tôi hiểu họ giữ ý kiến đó ở Vancouver. Nhưng ông Richardson rất quan tâm về sự chú ý của báo chí. Hình như là rất nhiều. Ông ấy yêu cầu tôi báo cáo rằng các tin tức ngày càng gia tăng trên mặt báo và hầu hết đều ở trang nhất. Một số nhật báo ở miền Đông đã có phóng viên riêng ở Vancouver chuyên lo vụ này. Có 14 bài xã luận nhắc lại lời Ngài tuyên bố trước khi rời Vancouver. Ông Bonar Deitz cũng dang có những tuyên bố công kích Chính phủ mỗi khi có dịp. Theo lời ông Richardson là “ phe Đối lập đang thừa nước đục thả câu”.

Thủ tướng giận dữ, ‘ Ông ta nghĩ chúng sẽ làm gì chứ ? Vỗ tay hoan hô chúng ta chắc ?’

‘ Tôi không biết chính xác ông ấy nghĩ gì về chuyện đó.’

Howden nổi cáu, ‘ Tại sao cậu cứ phải trả lời từng câu như thế hả ?’

Prowse nói, ‘ Tôi luôn luôn cho rằng Ngài chờ đợi câu trả lời.’

Trong giọng nói chàng trai là một sự ngạc nhiên lễ độ và dù đang rất giận, Howden cũng phải mỉm vười,

‘ Đó không phải lỗi của cậu. Cũng chẳng phải lỗi ai khác, ngoại trừ…’ Ý nghĩ ông hướng về Harvey Warrender.

Elliot Prowse lại nói ,’ Còn một việc nữa. Ông Richardson yêu cầu tôi thông báo với Ngài sẽ còn nhiều câu hỏi của báo chí ở phi trường khi ta hạ cánh. Ông ấy nói ông ấy không biết làm sao để Ngài tránh được.’

James Howden chua chát , ‘ Tôi không làm gì để tránh nó cả.’ Và nhìn thẳng vào người phụ tá , ‘ Cậu được cho là một chàng trai thông minh. Cậu có đề nghị gì không ?’

Prowse lưỡng lự, ‘ Thế này…’

‘ Cứ tiếp đi.’

‘ Thưa Ngài, nếu tôi được phép nói, Ngài sẽ rất có ảnh hưởng khi Ngài đừng giận dữ.’

Howden lại mỉm cười, rồi lắc đầu, ‘ Để tôi báo cho cậu biết : Đừng bao giờ, đừng bao giờ nổi giận với báo chí.’

Nhưng sau đó, quên lời khuyên của chính mình, ông đã nổi giận.

Chuyện xảy ra khi hạ cánh ở phi trường Ottawa. Họ dùng taxi, như các chuyến bay của VIP vẫn thường làm, ra cửa thường thay vì ra cửa đặc biệt là nơi chiếc Vanguard cất cánh. Trong cabin riêng, khi Elliot Prowse đã đi ra và còn lại với cơn giận của riêng mình, James Howden vẫn còn đắm chìm trong hào quang của chiến thắng, cho dù thành công ở Washington mới chỉ được chia sẻ với vài người trong nội bộ.

Nhìn qua cửa sổ, Margaret nhận xét, ‘ Hình như có đám đông đang tụ tập ở dưới. Anh có nghĩ họ chờ chúng ta không ?’

Vừa cởi dây an toàn ông vừa chồm qua người Margaret. Đúng thế thật, ông thấy ngay lập tức; có đến vài trăm người, hầu hết mặc áo khoác dày và khăn quàng kín cổ để chống lại cái lạnh, đang chen chúc xô đẩy với lính gác. Trong khi đó, người ta vẫn đang tiếp tục kéo đến.

Ông nói như giãi bày, ‘ Hoàn toàn có thể. Suy cho cùng thì Thủ tướng Canada cũng là một cái gì đấy, phải không em ?’

Margaret tỏ ra mình vô tội, ‘ Em mong ta có thể lọt qua được thật nhanh. Em khá mệt.’

‘ Phải, không nên quá lâu, nhưng anh mong là anh sẽ tuyên bố vài câu.’ Ông lựa lời,… cuộc hội đàm cực kỳ thành công ( ông có thể nói nhiều về việc đó mà không sợ quá sớm) … một tuyên bố về những thành tựu thực tế trong vài tuần lễ tới … cố đến gần hơn, những quan hệ mật thiết ( tốt hơn đừng nói chân tình quá ) giữa hai nước chúng ta … sung sướng làm mới lại tình thân hữu lâu bền giữa tôi và Tổng thống …

Ông quyết định, còn gì khác, cũng sẽ diễn ra tốt đẹp thôi.

Động cơ ngừng, cửa máy bay mở ra, một xe thang tiến vào. Trong khi những người khác lịch sự đứng chờ, James Howden và Margaret đi ra đầu tiên.

Ánh mặt trời le lói và cơn gió bấc lạnh buốt thổi qua phi cảng.

Khi họ dừng lại để tránh cơn gió, trên bục đầu cầu thang, hình như Howden thấy, cách chưa đầy 100mét, là một sự yên lặng lạ kỳ.

Stuart Cawston, bước vội lên, tay chìa ra, tươi cười, ‘ Xin chào ! Chào mừng đã về nhà nhân danh tất cả chúng ta.’

Margaret kêu lên, ‘ Quá tốt ! Chúng tôi chỉ mới đi xa có ba ngày thôi mà !’

Cawston đoan chắc, ‘ Hình như lâu hơn thế. Chúng tôi rất nhớ ông bà.’

Nắm chặt tay Thủ tướng, Stu cợt thì thào, ‘ Lãi quá to , quá tuyệt . Ông đã làm một việc vĩ đại cho đất nước.’

Vừa bước xuống cầu thang, trong khi Margaret đi trước, Howden hỏi nhỏ, ‘ Ông có nói chuyện với

Lucien Perrault chưa ?’

Viên Bộ trưởng Tài chánh gật đầu, ‘ Đúng y như ông đã chỉ thị qua điện thoại. Tôi đã thông báo cho Perrault và không ai khác.’

Howden hài lòng, ‘ Tốt !’

Họ đi về phía những tòa nhà trong phi cảng. ‘ Chúng ta sẽ họp toàn thể Nội các vào sáng mai. Còn tối nay, tôi muốn nói chuyện riêng với ông, Perrault và một, hai người nữa. Có lẽ tốt nhất là trong văn phòng tôi.’

Margaret phản đối, ‘ Có nhất thiết là tối nay không, Jamie ? Cả hai ta đều mệt lử. Em ước gì tối nay sẽ là một tối bình yên.’

Chồng bà nóng nảy đáp, ‘ Sẽ còn những tối bình yên khác.’

Cawston đề nghị, ‘ Hay là bà ghé qua chỗ chúng tôi. Chắc chắn là Daisy sẽ rất vui.’

Margaret lắc đầu, ‘ Cám ơn, Stu. Tôi nghĩ không phải tối nay.’

Họ đang trên đường đến nhà ga cuối. Đằng sau họ ,những người khác đang lục tục xuống máy bay.

Một lần nữa, Thủ tướng cảm nhận được sự yên lặng. nhìn đám đông. Ông lo lắng quan sát, ‘ Họ đang yên lặng một cách bất thường, phải không ?’

Cawsron khẽ nhíu mày, ‘ Tôi nghe bảo thổ dân không thân thiện lắm. Hình như đây là một cuộc biểu tình có tổ chức. Họ đến bằng xe buýt.’

Như thể những lời này là điềm báo, cơn bão bổ bùng ra.

Đầu tiên là những tiếng huýt sáo và la ó, rất dữ dội, như thú xổ lồng. Rồi là tiếng reo hò, nghe như là, ‘ Lừa bịp !’ ‘ Độc tài !’ ‘ Vô lương tâm !’ ‘ Chúng tôi sẽ cho ông xuống !’ ‘ Ông không nên làm Thủ tướng nữa!’ ‘ Cứ chờ đến kỳ bầu cử sau !’

Cùng lúc, trật tự một cách hỗn độn, những tấm biểu ngữ giơ lên. Tới lúc đó, chúng vẫn được dấu kín, nhưng giờ thì Howden đã đọc được:

 

SỞ DI TRÚ : GESTAPO CỦA CANADA

 

HÃY CHO DUVAL VÀO,

ANH XỨNG ĐÁNG CÓ MỘT CƠ HỘI

 

 

 

THAY ĐỔI NGAY LUẬT DI TRÚ TÀN ÁC

 

CHÚA JESUS ĐÃ TỪ BỎ NƠI NÀY

 

CANADA CẦN DUVAL KHÔNG CẦN HOWDEN

 

CHÍNH PHỦ VÔ LƯƠNG TÂM HÃY CUỐN XÉO

 

Mím chặt môi, ông hỏi Cawston, ‘Ông có biết việc này không ?’

Ông Bộ trưởng Tài chánh nói một cách đau khổ, ‘ Brian Richardson có báo trước với tôi. Theo ông ấy, mọi việc đều do phe Đối lập sắp xếp. Nhưng nói thật, tôi không nghĩ nó lại tồi tệ đến thế.’

Thủ tướng nhìn những ống kính truyền hình lia về phía những tấm biểu ngữ và đám đông đang lo ó. Hình ảnh này sẽ truyền di khắp nước đêm nay.

Không còn việc gì khác để làm trừ việc tiếp tục đi ra cửa nhà ga trong khi những tiếng gào thét càng lúc càng giận dữ và lớn hơn. James Howden nắm chặt tay Margaret và cố gượng cười. Ông dục, ‘ Cứ làm như không có chuyện gì xảy ra vậy, và đừng vội vàng.’

Margaret nói, ‘ Em đang cố đây. Nhưng sao khó quá.’

Âm thanh của đám đông nhỏ dần đi khi họ vào nhà ga. Một nhóm phóng viên đang chờ, Brian

Richardson lởn vởn ở phía sau. Lại có thêm những ống kính truyền hình chĩa về phía Thủ tướng và Margaret.

Khi Howden dừng lại, một phóng viên trẻ hỏi, ‘ Thưa Thủ tướng, Ngài có thay đổi ý kiến về vụ nhập cư của Duval không ?’

Sau Washington … cuộc thương thuyết trong cung cấm, sự tôn trọng của Tổng thống, thành công của ông … để cuối cùng lãnh ngay một câu hỏi đầu tiên là như thế này đây. Kinh nghiệm, khôn ngoan, thận trọng biến đi đâu mất khi Thủ tướng giận dữ tuyên bố, ‘ Không , tôi không thay đổi ý kiến gì cả, cũng không có bất kỳ chuyện gì tương tự. Những gì xảy ra ngay bây giờ đây – trong trường hợp quý vị không hay biết – là một cuộc biểu tình chính trị có tính toán, được những thành phần vô trách nhiệm tổ chức.’ Bút chì của các phóng viên chạy rào rào khi Howden tiếp tục, ‘ Những thành phần này – mà tôi không cần nêu tên họ ra – đã sử dụng chuyện cỏn con này để hướng sự chú ý của dư luận đi lệch ra khỏi những thành tựu thực sự của Chính phủ trong các lãnh vực quan trọng hơn. Hơn nữa, tôi tuyên bố với quý vị Báo chí rằng, vì cứ tiếp tục nhấn mạnh đến vụ việc tủn mủn này, vào một thời điểm mà những quyết định quan trọng và lớn lao đang đặt ra cho đất nước chúng ta, là quý vị hoặc đang bị lừa gạt, hoặc vô trách nhiệm hoặc cả hai.

Ông thấy Brian Richardson lắc đầu lia lịa. Howde nghĩ, phải thôi, báo chí có chướng ngại trên đường di của họ, và đôi khi tấn công là cách phòng thủ tốt nhất. Nhưng đúng mực hơn, khi cơn giận đã nguôi đi, ông tiếp tục, ‘ Quý vị đây nên nhớ cho rằng tôi đã trả lời các câu hỏi về vấn đề này, kiên nhẫn và đủ lâu, ba ngày trước. Nhưng nếu quý vị có quên, tôi xin nhấn mạnh một lần nữa rằng, Chính phủ có ý định hành xử theo luật như đã quy định trong luật nhập cư,’

Có ai đó nhẹ nhàng hỏi, ‘ Ngài muốn nói rằng Ngài sẽ để cho Duval chết rã thây trên con tàu ấy ?’

Thủ tướng quát trả, ‘ Câu hỏi này không liên quan đến tôi.’

Đó là một chọn lựa ngôn từ sai lầm : ông muốn nói rằng vấn đề này nằm ngoài tầm phán quyết của ông.

Nhưng tính ương ngạnh đã không cho ông sửa lại những gì đã nói ra.

Vào lúc chiều tối, những lời nói trên đã lan từ bờ biển này sang bờ biển kia. Truyền thanh và truyền hình lập lại nó, và các biên tập viên báo buổi sáng, với đôi chút khác biệt, giật hàng tít :

 

DUVAL : THỦ TƯỚNG ‘ KHÔNG LIÊN QUAN’ BÁO CHÍ, CÔNG LUẬN ‘ VÔ TRÁCH NHIỆM’

 

 

 

Chương 12

 

VANCOUVER, NGÀY 4 THÁNG GIÊNG.

 

1.

 

 

Chuyến bay chở Thủ tướng hạ cánh xuống phi trường Ottwa vài phút trước 1g30 trưa, giờ tiêu chuẩn miền Đông. Cùng lúc ấy ở Vancouver – cách bốn tỉnh và ba múi giờ về phía tây – vẫn còn là buổi sáng và gần 10g30, giờ khắc mà chỉ thị tạm thời sẽ ảnh hưởng đến tương lai và tự do của Henri Duval bắt đầu được nghe nói đến trong các phòng thẩm phán.

‘ Tại sao lại các phòng thẩm phán ?’ Dan Orliffe hỏi Alan Maitland, người mà anh chạm mặt trong hành lang tầng thượng trụ sở Tòa án Tối cao tỉnh British Columbia. ‘ Tại sao không phải trước tòa ?’

Alan từ ngoài vào sớm hơn một chút, nơi mà, suốt đêm qua, những cơn gió lạnh buốt làm cả thành phố rùng mình. Còn bây giờ, trong tòa nhà ấm áp, cả một đạo quân báo chí vây quanh họ; những luật sư vội vã, áo choàng kêu loạt soạt; những người khác cùng các nguyên đơn đang hội ý lần sau cùng; những phóng viên mới đến – hôm nay đông hơn lệ thường vì vụ án Duval ngày càng được quan tâm nhiều hơn.

Alan nói vội vã, ‘ Việc nghe lời khai sẽ diễn ra trước tòa. Xem nào, tôi không ngừng lại được. Tôi phải khai trong vài phút nữa.’ Anh cảm thấy khó chịu về ngòi bút độc địa và cuốn sổ đã mở sẵn của Dan Orliffe. Anh đã đương đầu quá nhiều trong vài phút qua. Kể từ bản tin đầu tiên của Orliffe, hôm qua lại một lần nữa, sau khi tin tức về đơn thỉnh nguyện xin xét xử trước tòa của anh bị tiết lộ. Phỏng vấn và câu hỏi tràn ngập : Anh thực sự có một vụ án không ? Anh mong muốn chuyện gì xảy ra ? Nếu trát được cấp, thì sẽ có gì nữa ?...

Anh đã suy xét thật kỹ các câu hỏi, tự buộc tội mình dựa trên những cơ sở chuyên môn; và trong bất kỳ tình huống nào, anh đã nói, anh không thể tranh luận một vụ án chưa được đưa ra xét xử. Anh cũng ý thức được sự bất lợi khi các thẩm phán sẽ soi vào đối với các luật sư đi tìm sự hỗ trợ của dư luận và sự chú ý của báo chí đã đi quá xa làm anh không an tâm. Nhưng không một điều nào làm ngưng sự quan tâm các tít báo, hôm qua và hôm nay, cả các tin tức trên truyền thanh và truyền hình…

Rồi, bắt đầu từ trưa hôm qua, là những cú điện thoại và điện tín, đổ về từ khắp cả nước; từ ngoại quốc – hầu hết là những người anh chưa từng nghe nói đến, dù trong đó có một vài tên tuổi lớn. Tất cả đều cầu chúc cho anh thắng lợi, vài người còn gởi tặng tiền, và anh xúc động thấy rằng tình cảnh của con người không may mắn ấy đã gây nên sự quan tâm thực sự.

Và bây giờ, vào lúc Alan đã ngừng nói chuyện với Dan Orliffe, những phóng viên khác vây quanh anh.

Một trong những người ở ngoài thành phố, người mà Alan chợt nhớ ra ngày hôm qua – người của tờ Gazette ở Montreal, anh nghĩ vậy – hỏi, ‘ Vâng, công việc “các phòng này” là gì vậy ?’

Alan cho là mình nên bỏ ra chút ít thời giờ để đánh vần từ này ra. Những người này không phải phóng viên chuyên về pháp đình, và báo chí đã giúp anh khi anh cần sự giúp đỡ…

Anh nhanh nhẹn giải thích, ‘ Khác với những vụ án thông thường, tất cả đều được giải quyết trong phòng thẩm phán thay vì trước tòa. Nhưng luôn luôn có quá nhiều vấn đề cần được nghe, với rất nhiều người có liên quan, nên thẩm phán phải dời vào một phòng xử, mà hiện thời, trở thành phòng của ông.’

Một tiếng cười chế diễu từ phía sau, ‘ Thế là luật pháp biến thành con lừa là chuyện xưa tích cũ sao ?’

Alan gượng cười, ‘ Nếu tôi đồng ý với anh, anh có dẫn lời tôi không ?’

Một người nhỏ bé ở đằng trước hỏi, ‘ Đêm nay Duval sẽ có mặt ở đây chứ ?’

Alan trả lời, ‘ Không. Anh ấy vẫn ở trên tàu. Chúng tôi chỉ có thể đưa anh ra khỏi tàu nếu chỉ thị tạm thời được thực hiện một cách tuyệt đối - nghĩa là mệnh lệnh xét xử trước tòa. Đó là việc hôm nay sẽ được nghe.’ Tom Lewis len thân hình ngắn ngủn của mình qua đám đông. Cầm lấy tay Alan, anh dục, ‘ Đi thôi, người anh em.’

Alan liếc nhìn đồng hồ; đã gần 10g30. Anh nói với các phóng viên, ‘ Thế thôi, chúng tôi phải vào đây.’

Một người phục vụ nói, ‘ Chúc các bạn may mắn. Chúng tôi ủng hộ các bạn.’

Khi cánh cửa ngoài từ từ đóng lại lúc người cuối cùng đã vào, thư ký tòa nói lớn, ‘ Trật tự !’ Ở trước phòng xử nhỏ nhắn, vuông vức, có một viên thư ký ngồi sẵn. Ngài Thẩm phán Willis gầy gò, xương xẩu, nhanh nhẹn bước vào. Ông bước lên bục của thẩm phán, cúi đầu chiếu lệ trước cử tọa – chừng khoảng hai mươi con người sẽ xuất hiện trước mặt ông trong nửa giờ tới - và, không hề quay lại, buông người gọn gàng xuống chiếc ghế viên thư ký đã đặt sau lưng ông.

Nghiêng người qua Alan ngồi bên cạnh, Tom Lewis thì thào, ‘ Nếu ông ấy mà ngồi xuống chậm, sẽ thành một ông lùn mập.’

Nhanh như chớp, viên thẩm phán liếc về phía họ, gương mặt sắc nhọn của ông trông nghiêm nghị dưới cặp lông mày rậm màu xám và đôi mắt như thấu suốt tất cả mà Alan đã từng biết hai ngày trước đó. Alan tự hỏi ông ấy có nghe được không, rồi quyết định là không thể. Một cái gật đầu gọn ghẽ với viên thư ký, Ngài Thẩm phán ra hiệu rằng các thủ tục phòng xử có thể bắt đầu..

Nhìn quanh căn phòng lót gỗ đào hoa tâm, Alan thấy cánh báo chí đã chiếm hết hai hàng ghế, gần phía trước, phía đối diện với lối đi ở giữa. Bên phía của anh, đằng sau và đằng trước, là các luật sư tập sự, hầu hết đang cầm hay đang đọc các sách luật, sẵn sàng cho giây phút họ được gọi lên. Thế rồi, khi anh quay đầu về phía sau, năm người đàn ông đi vào.

Đi đầu là thuyền trưởng Jaabeck, mặc bộ nỉ xanh dương, áo khoác trên tay, bước đi ngập ngừng trong một đám đông xa lạ. Ông đi cùng một người lớn tuổi, ăn mặc chải chuốt, Alan nhận ra người này làm cho một công ty chuyên về luật hàng hải trong thành phố. Có lẽ đây là luật sư của Công ty Vận tải tàu biển. Cả hai ngồi đằng sau các phóng viên, viên luật sư – người này Alan đã từng gặp – nhìn quanh và gật đầu hài lòng, còn thuyền trưởng Jaabeck nghiêng người với một nụ cười nhẹ.

Liền sau đó là bộ ba- Edgar Kramer, gọn gàng như thường lệ, trong bộ đồ có hàng nút ôm sát người, khăn tay trắng gấp cẩn thận trên túi áo, thứ hai là một người lực lưỡng có hàng ria mép tỉa tót, đi sát với Kramer – có lẽ là phụ tá trong Sở Di trú, Alan đoán vậy; và dẫn đường cho hai người kia là một bộ mặt bệ vệ mà theo cái vẻ tự tin trước tòa, có thể đoán chắc là một luật sư.

Trước tòa, việc xét đơn thỉnh nguyện đã bắt đầu, viên thư ký gọi lần lượt từng người một. Cứ mỗi người được gọi tên, một luật sư lại đứng lên, nói ngắn gọn về hồ sơ của mình. Thẩm phán sẽ hỏi một vài câu thông lệ, rồi một cái gật đầu chấp nhận đơn thỉnh nguyện.

Tom Lewis huých tay Alan, ‘ Có phải ông bạn Kramer của mày – là thằng cha có bộ mặt như bình acid đấy không ?’

Alan gật đầu.

Tom nghiêng ngó ngắm nhìn những con người kia, rồi giây lát sau, anh quay lại, chúm môi lại bật ra tiếng huýt sáo nhỏ. Anh thì thào, ‘ Mày có thấy thằng cha đi với hắn không ?’

Alan cũng thì thào đáp, ‘ Người mẫu thời trang mặc bộ đồ xám đấy hả ? Tao không nhận ra. Còn mày ?’ Tom lấy tay che miệng, ‘ Tao đoán chắc, A. R. Butler, Cố vấn Hoàng gia. Chúng đang chĩa đại pháo vào mày đấy, chú nhỏ ơi. Muốn chạy chưa?’

Alan thì thầm, ‘ Thành thật mà nói, muốn lắm rồi.’

A.R. Butler là một tên tuổi huyền thoại. Một trong những luật sư biện hộ thành công nhất trong thành phố này. Ông nổi tiếng là một bộ óc xuất chúng, với những bài biện hộ chết người. Thông thường ông chỉ quan tâm đến những vụ quan trọng. Alan nghĩ, hẳn phải có sự thuyết phục nào đó, cộng với một chi phí khổng lồ, để Sở Di trú kéo được ông vào vụ này. Alan cũng nhận ra báo chí xôn xao thấy rõ.

Viên thư ký gọi, ‘ Vụ Henri Duval - thỉnh nguyện xin xét xử trước tòa.’

Alan đứng dậy, anh nói nhanh, ‘ Thưa quý tòa, có phải đứng đến khi đọc lần thứ hai không ?’. Đó là phép lịch sự thông thường đối với các luật sư khác đang hiện diện, những người xếp sau anh trong bảng danh sách, với thỉnh nguyện và yêu cầu tranh luận sẽ khiến vụ việc được giải quyết nhanh hơn. Sau đó, những tên còn lại – những người tham dự vào tiến trình kéo dài về sau, sẽ đươc gọi lại lần nữa.

Khi vị quan tòa gật đầu, viên thư ký xướng tên kế tiếp.

Ngồi lại vào chỗ, Alan cảm thấy có một bàn tay đang đặt trên vai anh. Đó là A.R.Butler. Trong khi Alan nói, viên luật sư này đã đi ngang qua, ngồi vào sau lưng anh. Thoang thoảng có mùi nước hoa cạo râu.

Ông ta thì thào, ‘ Chào. Tôi tham dự vào vụ kiện của anh, nhân danh Chính phủ. Tên tôi là Butler.’ Mỉm cười lịch sự, như một bậc trưởng lão đối với một thành viên trẻ trong luật sư đoàn, ông chìa tay ra.

Alan nắm lấy bàn tay mềm mại, móng cắt tỉa khéo léo. Anh thì thào, ‘ Vâng, tôi biết.’

Vẫn với giọng thì thào ra hiệu hướng về phía viên luật sư đi cùng thuyền trưởng Jaabeck, ‘ Harry Tolland, đại diện cho Công ty Vận tải biển Nordic. Họ là chủ của chiếc tàu. Tôi cho là anh biết…’

Alan thở ra một hơi, ‘ Không. Tôi không biết. Cám ơn ông.’

A.R.Butler lại đưa tay lên vai Alan. ‘ Vậy thôi, anh bạn. Cứ coi như anh thích thông tin này. Điều thú vị là anh đã lôi vụ này ra; Chúng tôi rất tán thưởng.’ Rồi gật đầu thân mật, ông lại quay về bên kia phòng xử.

Alan nhìn quanh, cố ý tỏ ra lịch sự để chào Edgar Kramer. Trong một thoáng, anh bắt gặp Kramer đang

nhìn mình. Thế rồi, tỏ ra lạnh nhạt, vị công chức này quay đi.

Lấy tay che miệng, Tom nói, ‘ Cứ thoải mái và chạm vào tao này, đúng chỗ ông lớn ấy đã chạm vào mày ấy.’

Alan gượng cười, ‘ Tao nghĩ là rất thân thiện.’ Nhưng vẻ tự tin bề ngoài chỉ là giả vờ. Sự căng thẳng và tâm lý nặng nề đang đè lên người anh.

Tom thì thầm, ‘ Một trong những điều tốt đẹp của nghề chúng ta là người ta luôn cười trước khi lụi dao.’

Việc xướng danh lần thứ hai bắt đầu.

Thông thường thì bây giờ phòng xử gần như trống rỗng, thế nhưng chỉ có vài luật sư bỏ đi ra. Rõ ràng họ ở lại vì vụ Duval.

Một vụ ly dị lập tức được đưa ra giải quyết trước.

Giờ là không khí chờ đợi.

Như đã sắp sẵn, viên thư ký tuyên, ‘ Vụ Henri Duval.’

Alan đứng dậy. Anh nói, giọng bỗng nhiên căng thẳng.

‘ Thưa Ngài,…’ Anh do dự, ho rồi ngừng lại. Yên lặng bao trùm phòng xử. Các phóng viên quay nhìn.

Đôi mắt xám lượng định tình hình của quan tòa Willis dán chặt vào anh. Và anh bắt đầu trở lại.

‘ Thưa Ngài, tôi có mặt ở đây, nhân danh đương đơn Henri Duval. Tôi tên là Alan Maitland, và người bạn đáng kính của tôi, ông Butler,’ – Alan liếc nhìn quanh khi A.R.Butler đứng lên và cúi đầu – có mặt nhân danh Bộ Dân quyền và Di trú, và người bạn đáng kính của tôi, Ông Tolland – Alan đọc qua một tờ giấy anh vừa ghi chép trước đó – đại diện Công ty Vận tải tàu biển Nordic.’ Viên luật sư bên cạnh thuyền trưởng Jaabeck đứng lên và cúi đầu chào quan tòa.

Chánh án Willis nói cộc lốc, ‘ Được rồi. Vấn đề là thế nào đây ?’

Với tất cả sự cộc cằn , câu hỏi là cả một sự mìa mai. Không thể nào, cho dù là một Chánh án tòa Tối cao tôn nghiêm – có lẽ là đã đọc báo – lại không hay biết gì về sự hiện diện của Henri Duval trong suốt mười một ngày qua. Nhưng đó cũng là cách nhắc cho người ta nhớ rằng tòa án chỉ quan tâm đến các sự kiện và những biện hộ thích hợp. Hơn nữa, Alan cũng ý thức được rằng, những lập luận anh đã phác thảo hai ngày trước, phải được trình bày lại ở đây một cách đầy đủ.

Vẫn còn căng thẳng, đôi lúc lại ngừng lời, anh bắt đầu.

‘ Để làm vui lòng Ngài, các dữ kiện là đây.’ Một lần nữa, Alan Maitland mô tả lại tình trạng của Henri Duval trên tàu Vastervik , kết hợp với hai lần “từ chối” của thuyền trưởng Jaabeck để đưa người đi lậu ra trước các viên chức Di trú trên bờ. Anh lại lập luận rằng. việc giam cầm Duval là bất hợp pháp, xâm phạm đến nhân quyền.

Ngay khi đang nói, anh cũng nhận ra cấu trúc lỏng lẻo mà anh đang xây dựng. Nhưng dù có kém lưu loát và kém tự nhiên hơn lần trước, tính lì lợm cứ đẩy anh tiếp bước. Bên tay phải, anh nhận ra A.R.Butler, Cố vấn Hoàng gia, đang nghe một cách lịch sự và đôi khi, ghi chú lên giấy. Chỉ có một lần, khi liếc xéo, Alan thấy ông luật sư lão luyện này để lộ một nụ cười mơ hồ. Thuyền trưởng Jaabeck thì chăm chú nghe từng lời.

Anh biết rằng trong vòng vây này, anh phải cẩn thận không nhắc tới khía cạnh tình cảm của vụ việc, Nhưng trên hết, trong một ngóc ngách của hồn mình, anh vẫn nhớ khuôn mặt ám ảnh của kẻ đi lậu trẻ tuổi, khuôn mặt pha trộn lạ lùng giữa hy vọng và buông xuôi. Trong một hay hai giờ nữa, cái nào sẽ thắng đây – hy vọng hay buông xuôi ?

Anh kết thúc bằng lập luận của hai ngày trước : dù là người đi lậu đi nữa, anh vẫn có quyền yêu cầu những viên chức đặc biệt của Sở Dân quyền và Di trú thẩm vấn tình trạng nhập cư của anh. Nếu một yêu cầu như thế bị từ chối với tất cả mọi người, ngay cả với một công dân Canada lương thiện – nhất thời không chứng minh được nhân thân – cũng bị từ chối không được vào xứ sở của chính mình hay sao ?. Cũng lập luận đã làm nở một nụ cười trên mặt vị thẩm phán Willis trước đó.

Bây giờ thì không có nụ cười nào cả. Chỉ có, trên thân hình thẳng tắp với mái tóc bạc trắng kia, một vẻ lãnh đạm đến vô tình. Ý thức một cách khốn khổ lập luận yếu ớt của mình, sau bài diễn thuyết dài mười phút, Alan ngồi xuống.

Bây giờ là tấm thân lừng lững vai rộng và đầy tự tin, A.R.Butler đứng lên. Vẻ trang nghiêm một cách tự nhiên. Alan nghĩ, như một nguyên lão nghị viện La Mã vậy. Ông đối diện với quan tòa.

Giọng nói trầm sang trọng vang lên khắp phòng, ‘ Thưa Ngài. Tôi đã nghe, với tất cả sự quan tâm và kính phục, những lập luận của người đồng nghiệp xuất sắc của tôi, ông Maitland.’

Trong khi ông ta dừng lời để suy nghĩ, Tom Lewis thì thầm, ‘ Thằng cha ấy muốn nói mày thiếu kinh nghiệm khi dùng từ.’

Alan gật đầu. Anh cũng nghĩ y như vậy.

Giọng nói tiếp tục, ‘ Quan tâm vì ông Maitland đã đưa ra một sự đảo ngược đầy tính hư cấu nhất trong một quan điểm luật pháp đơn giản; và khâm phục vì khả năng phi thường khi xây nên những viên gạch – hay là hình như muốn xây - từ một sợi tơ pháp luật mong manh nhất.’

Nếu từ bất kỳ ai khác, đó là sự dã man và tàn bạo. Nhưng từ A.R.Butler với một nụ cười chân thành, những lời này hình như phát xuất tự đáy lòng.

Sau lưng Alan như có tiếng ai cười gượng.

A.B.Butler nói tiếp, ‘ Thưa Ngài, sự thật đơn giản của vấn đề, như tôi sẽ chỉ ra, là thân chủ của người bạn tôi, ông Duval, chúng ta đều hay biết về tình trạng đặc biệt của ông ta, và vấn đề đó, tôi có thể nói, Sở Di trú hết sức quan tâm… Sự thật của vấn đề Duval bị cầm giữ, không phải bất hợp pháp, mà là hợp pháp, theo một lệnh cầm giữ, được cấp đúng trình tự và thích đáng, dựa trên luật nhập cư của Canada. Hơn nữa, tôi xin trình với Ngài rằng, thuyền trưởng của tàu Vastervik đã hành động với tất cả thẩm quyền hợp pháp trong việc cầm giữ Duval, theo như báo cáo của người bạn đáng kính của tôi. Thật ra, nếu thuyền trưởng không làm việc đó…’

Những mỹ từ mạch lạc, trong sáng cứ tiếp tục tuôn ra.

Trong khi Alan ngắc ngứ tìm lời, thì A.R.Butler nói rất văn hoa và truyền cảm. Trong khi Alan nói vòng vo, quanh đi lộn lại, thì A.R.Butler tóm gọn từng điểm, rồi nhanh chóng chuyển sang điểm khác.

Lập luận của ông rất thuyết phục : rằng việc cầm giữ này hợp pháp ; rằng mọi điểm cần thiết đều được thực thi theo luật ; Thuyền trưởng con tàu đã không phạm sai lầm nào, và theo đúng cách thức như thế, Sở Di trú cũng không. Là một kẻ đi lậu, Duval không có quyền gì và như thế việc đòi hỏi phải có cuộc điều tra đặc biệt về tình trạng nhập cư là không thể ; rằng lập luận của Alan về một công dân Canada giả định bị từ chối nhập cư vừa lỏng lẻo vừa nực cười. Rồi A.R.Butler cười- một cách độ lượng – tất nhiên.

Alan phải thừa nhận với chính mình, đó là một cuộc trình diễn tuyệt vời.

A.R.Butler kết luận, ‘ Thưa Ngài, tôi yêu cầu bác đơn thỉnh nguyện và hủy bỏ chỉ thị tạm thời.’ Sau khi trang trọng cúi đầu, ông ngồi lại vào chỗ.

Như thể một ngôi sao vừa xuất hiện trên sân khấu và đã biến đi, sự yên lặn ngự trị trong căn phòng xử. Chỉ trừ câu nói “ Vấn đề là thế nào đây?” – còn thì thẩm phán Willis không nói thêm gì. Cho dù ở đây không có chỗ cho cảm xúc, Alan vẫn mong ít nhất cũng có vài biểu hiện quan tâm về mặt pháp lý, nhưng đã không có gì cả. Anh nghĩ, tòa án này đang tranh luận về gạch đá hay xi măng- chứ không phải về một con người. Lúc này ông quan tòa cử động, thay đổi tư thế thẳng như cây cột trong cái ghế lưng cao, đọc các ghi chép của ông, rồi với tay lấy ly nước lạnh và nhấp môi. Alan thấy các phóng viên đang trở nên bồn chồn, anh để ý có vài người xem đồng hồ. Và anh cho là có người đang nghĩ giờ khắc quyết định đang đến. Mặc dù đã hơn 11giờ, gian phòng vẫn đông khác thường, chỉ có những luật sư bận những vụ khác còn ở lại, khi quay đầu anh thấy có thêm vài ghế có người ngồi.

Lần đầu tiên, Alan ý thức được những âm thanh của thành phố bên ngoài : tiếng gió rít lên và hạ xuống; tiếng xe cộ ; tiếng ầm ầm vang dội như máy khoan bằng hơi ; xa xa có tiếng chuông và trên mặt nước là tiếng còi của chiếc tàu kéo : có lẽ một con tàu đang rời bến; cũng như chiếc Vastervik sẽ rời đi, có hay không có Henri Duval. Vâng, chỉ trong giây lát nữa thôi, họ sẽ biết.

Trong yên lặng, có tiếng kéo ghế ra sau. Đó là Tolland, luật sư của Công ty Vận tải biển. Bằng một giọng the thé kỳ lạ trái ngược với giọng ngọt như mật của A.R.Butler, ông bắt đầu, ‘ Thưa, nếu Ngài vui lòng…’

Thẩm phán Willis ngước lên từ đống giấy tờ và nhìn khắp phòng, ông nói, ’Không, ông Tolland, tôi không làm phiền ông.’

Viên luật sư cúi đầu và ngồi xuống. Sự việc đã diễn ra như thế.

Sự can thiệp của quan tòa chỉ có một ý nghĩa duy nhất. Vụ án của Alan đã thất bại và không cần một cuộc tranh tụng nào khác để tiêu hủy nó.

Tom thì thào,’ Ít nhất thì ta đã cố hết sức.’

Alan gật đầu. Anh cho là mọi sự anh chờ đợi đã hỏng bét. Suy cho cùng, anh đã biết ngay từ đầu chiến lược của anh chỉ là chuyện cầu may. Nhưng khi thất bại đã rõ, anh lại thấy mùi vị của cay đắng. Anh tự hỏi phải xỉ vả kinh nghiệm của mình như thế nào đây, những ngôn từ vụng về của anh trước tòa. Nếu anh nói một cách chặt chẽ hơn - thuyết phục hơn, như A.R.Butler, Cố vấn Hoàng gia - thì lẽ ra anh đã thành công thay vì thất bại ?

Hoặc may mắn hơn, anh đã đứng trước một vị quan tòa nhiều tình cảm hơn là ông quan tòa mặt sắt đen sì kia – kết quả sẽ khác đi chăng ?

Như nó đã xảy ra, nó không như thế.

Trong tâm trí thẩm phán Stanley Willis, quyết định ông sắp đưa ra hình như là không thể tránh được, ngay cả trước khi hai vị luật sư bắt đầu nói. Thật ra, ông đã nhìn thấy những yếu kém rành rành trong hồ sơ của Alan, cho dù rất khôn khéo, khi anh trình diện trước mặt ông hai ngày trước.

Nhưng lúc ấy có quá đủ chứng cớ để cấp chỉ thị tạm thời. Còn bây giờ, hiển nhiên là - với sự hối tiếc sâu sắc của vị thẩm phán – không còn căn cứ nào để ký trát xét xử trước tòa.

Ngài Thẩm phán Willis quan sát A.R.Butler, Cố vấn Hoàng gia, con người điệu bộ và màu mè kia, ăn nói văn hoa và trôi chảy, vẻ ngoài niềm nở và rộng lượng, với những mưu mẹo nằm sẵn trong túi mà có thể đã ảnh hưởng đến bồi thẩm đoàn nhưng các quan tòa thì không. Dẫu sao, không có gì sai sót trong kiến thức về luật của A.R.Butler; và những lập luận ông ta vừa đưa ra là không thể bắt bẻ được.

Thẩm phán Willis phải – và sẽ phải trong giây lát nữa thôi – bác đơn thỉnh nguyện xin xét xử trước tòa. Nhưng ông lại ước muốn cháy lòng rằng có một cách nào đó để giúp đựoc chàng luật sư trẻ và dĩ nhiên, cả Henri Duval.

Ước muốn này có hai lý do. Thứ nhất , là một độc giả trung thành của báo chí, thẩm phán Willis cũng bị thuyết phục rằng người ta nên cho kẻ đi lậu không nhà ấy một cơ hội để lên bờ và sống ở Canada. Ngay từ báo cáo đầu tiên, ông đã tin rằng Sở Di trú đã khước từ các nguyên tắc như đã áp dụng, như ông biết có vô số trường hợp khác nữa. Nó làm ông sững sờ và tức giận vì không chỉ trường hợp này mà chính phủ - qua các viên chức Sở Di trú còn làm trái sự việc mà ông coi như nguyên tắc bất di bất dịch.

Lý do thứ hai là những gì ông rất thích ở Alan Maitland. Sự vụng về, đôi khi non nớt, không gây chút xíu vấn đề gì nơi ông thẩm phán; một luật sư hoàn hảo không nhất thiết phải là một Demosthenes (một nhà hùng biện lỗi lạc Hy Lạp cổ đại).

Khi vụ Duval được đăng đầy trên các báo, thẩm phán Willis đã thấy là một trong những thành viên quan trọng trong luật sư đoàn nên đứng ra trợ giúp về mặt pháp lý. Lúc đầu ông đã rất buồn khi thấy không ai làm gì cả, rồi khi báo chí nói rằng một luật sư trẻ đơn thương độc mã làm việc ấy, ông đã xúc động biết bao. Bây giờ ngắm Maitland, sự hài lòng trở thành kiêu hãnh.

Sự quan tâm riêng của ông đến vụ án này, tất nhiên, hoàn toàn không trùng hợp, Và hẳn nhiên, không một thành kiến cá nhân nào ảnh hưởng đến nhiệm vụ thực thi pháp luật của ông. Cũng tương tự, đôi khi có những việc nhỏ nhặt mà một thẩm phán có thể làm được.

Quan tòa Willis nghĩ, tất cả tủy thuộc vào chàng đại diện pháp lý trẻ trung của Henri Duval, sẽ xoay chuyển tình thế một cách khôn khéo như thế nào.

Một cách ngắn gọn, vị thẩm phán tuyên bố những lý do ông ủng hộ lập luận của A.R.Butler. Việc cầm giữ Duval của Thuyền trưởng là phù hợp với luật cầm giữ của Sở Di trú vì không phải là sự cầm giữ bất hợp pháp nên không cần đưa ra xét xử trước tòa. Và ông cộc lốc nói thêm, ‘ Đơn thỉnh nguyện bị bác.’

Chuẩn bị đi ra, Alan ủ rũ xếp hồ sơ vào cặp thì giọng nói ấy cất lên một cách rõ ràng, ‘ Ông Maitland’.

Alan đứng dậy, ‘ Vâng, thưa Ngài.’

Cặp lông mày rậm có vẻ dữ dội hơn bao giờ. Alan tự hỏi chuyện gì sẽ đến đây. Có lẽ là sẽ khiển trách nặng lời. Những người khác, đã đứng lên sửa soạn đi, lại ngồi xuống.

Vị thẩm phán trịnh trọng tuyên bố, ‘ Ông đã lập luận rằng, thân chủ của ông có quyền được thẩm tra theo luật nhập cư. Theo trình tự luật pháp, tôi đề nghị cho phép ông được nghe Sở Di trú, thông qua các viên chức của họ - thẩm phán Willis liếc về phía nhóm Edgar Kramer – có bổn phận phải tạo thuận lợi cho những gì ông tìm kiếm.’

‘ Nhưng, thưa Ngài ?... ‘ Alan bắt đầu nóng ruột. Anh dừng lại, thất vọng, giận sôi lên. Cho dù với sự quanh co của luật pháp, ngươi cũng không có cách nào nói với thẩm phán tòa tối cao rằng : ‘ những gì ông nói với tôi là vô nghĩa. Ông có nghe không ?’- Sở Di trú từ chối việc thẩm tra này. Đó là lý do chúng ta ở đây để tranh tụng. Ông không nghe những gì vừa nói sao ? Hay không hiểu ? Hay ông vừa chợp ngủ ?’

Alan nghĩ, quá đủ tệ hại rồi, để lôi kéo được một quan tòa vô cảm, cứng nhắc, chấp nhận một cuộc mặc cả ngu xuẩn hoàn toàn là trò hề.

Thẩm phán Willis nhận xét, ‘ Dĩ nhiên, nếu Sở Di trú chứng minh là họ đúng, anh vẫn có quyền xin được phúc tra, có phải không ?’

Lời lời sôi sục trong miệng Alan. Thế này là quá sức chịu đựng. Vẫn chưa đủ để chịu thua mà không … Một ý nghĩ chợt lóe lên làm anh ngừng lại. Anh thấy Tom Lewis bên cạnh. Vẻ mặt Tom nửa như nóng nảy, nửa như chán ghét. Hẳn nhiên, Tom cũng chia sẻ với anh về đề nghị bất ngờ này của vị thẩm phán.

Song le …

Đầu óc Alan Maitland quay trở về … những bài giảng ở trường Luật nửa nhớ nửa quên … những cuốn sách luật bụi bậm … đã mở và đã lãng quên … ở đâu đó, anh chắc rằng có một chìa khóa, nếu như anh vặn được … Rồi trí nhớ khuấy động, những mảnh vụn rời rã.

Alan liếm môi. Nhìn thẳng vào vị quan tòa, anh từ tốn nói, ‘ Nếu điều đó làm vui lòng Ngài…’

Đôi mắt nhìn như muốn xuyên thủng người anh. ‘ Vâng, ông Maitland ?’

Một giây phút trước đó Alan đã nghe tiếng bước chân đi ra cửa. Giờ họ quay lại. Tiếng ghế lệt sệt khi có người ngồi xuống. Những người khác trong phòng xử đợi chờ.

A.R.Butler dán mắt vào mặt Alan. Rồi chuyển qua vị thẩm phán và trở lại.

Edgar Kramer sửng sốt một cách thành thật. Alan thấy Kramer cũng có vẻ bứt rứt một cách lạ lùng. Ông ta cựa quậy trên ghế nhiều lần như thể ông bị khó chịu trong thân xác.

Alan hỏi, ‘ Xin Ngài vui lòng lập lại câu hỏi vừa rồi ?’

Cặp lông mày nhô ra. Có một nụ cười mơ hồ bên dưới đó không ? Khó nói chắc được.

Thẩm phán Willis trả lời, ‘ Tôi nói rằng nếu như Sở Di trú đủ chứng lý, ông vẫn có quyền xin được phúc tra.’

Sự thấu hiểu - và cả giận dữ - hiện rõ trên mặt A.R.Butler.

Trong đầu Alan nổ vang lên như tiếng súng lệnh hai từ : orbiter dictum (một ý phụ thêm của quan tòa nhưng không bắt buộc).

Orbiter dictum là những gì được nói ra một cách ngẫu nhiên … ý kiến ngoài lề của quan tòa, về một điểm nào đó của luật pháp, không liên hệ đến quyết định tức thời của ông … Orbiter dictum, không có ý bắt buộc …chủ ý nhằm hướng dẫn … Hướng dẫn.

Quan tòa Willis đã nói ra một cách tình cờ, một ý nghĩ vô tình nào đó hiện ra rồi mất đi. Nhưng không có gì là ngẫu nhiên, Alan thừa nhận thế, trong đầu óc vị thẩm phán lão luyện này, người mà anh đã nghi ngờ một cách sai lầm về sự lãnh đạm và vô tình của ông.

Alan nói, ‘ Cám ơn Ngài. Tôi sẽ sử dụng quyền xin được phúc thẩm ngay lập tức.’

Lệnh xin phúc tra hôm nay thì không thực tế. Nhưng có thể nếu được sử dụng. Phúc tra, một từ cổ nghĩa là, ‘ chúng tôi yêu cầu’ … ra lệnh cho một viên chức công quyền phải làm nhiệm vụ công chức của anh ta … đặc quyền của các vua nước Anh từ thời Cải cách, và ngày nay dùng cho các quan tòa, dù ít được sử dụng.

Một trát như thế là ra lệnh cho Edgar Kramer, với tất cả quyền hành của tòa án phía sau nó, buộc phải tổ chức cuộc thẩm tra mà Alan chờ đợi nhưng không được trì hoãn hay thắc mắc gì thêm. Và bằng trát cho thẩm tra, quan tòa Willis đã làm sáng tỏ rằng, lệnh phúc tra nếu muốn, sẽ được cấp ngay.

Tom Lewis thì thào, ‘ Xem chúng hội ý với nhau kìa. Chúng đang tháo mồ hôi thực sự.’

Khắp phòng xử, những cái đầu chụm lại, A.R.Butler, Edgar Kramer và luật sư của Công ty Vận tải biển, đang vội vàng , xì xầm bàn thảo với nhau.

Giây lát sau. A.R.Butler, mặt đỏ bừng và không còn giữ vẻ hòa nhã nữa, đứng dậy đối mặt với quan tòa. Cố giữ vẻ lịch sự, ông nói, ‘ Tôi yêu cầu Ngài cho phép tôi được hội ý trong giây lát với thân chủ của tôi.’

‘ Tốt lắm’. Chụm các đầu ngón tay lại, vị thẩm phán ngước nhìn lên trần nhà trong khi chờ đợi. Cố vấn của kẻ đi lậu đã trở lại vẻ tinh khôn và sắc sảo như ông từng mong đợi.

Alan ngồi xuống.

Tom thì thào. ‘ Cầu Chúa phủ hộ cho ông già tóc xám ấy !’

Alan hỏi, ‘ Mày hiểu không ?’

Tom thì thào,’ Lúc đầu thì không. Giờ thì hiểu. Mày ngon rồi !’

Alan gật đầu. Bụng như mở cờ nhưng anh cẩn thận không để lộ ra.

Anh biết, những lời tưởng như là tình cờ của vị thẩm phán đã đặt phía bên kia vào một tình thế vô vọng.

Sở Di trú, đại diện là Edgar Kramer, ngay lập tức phải chọn một trong hai trường hợp : hoặc tiếp tục từ chối cuộc điều tra mà Alan yêu cầu, hoặc thay đổi ý kiến và chấp nhận. Nếu chọn trường hợp thứ nhất, Alan có thể dùng quyền xin thẩm tra và trao tận tay Kramer. Hơn nữa, lợi dụng thời gian xin lệnh thẩm tra và thi hành nó, Alan có thể chắc chắn rằng Henri Duval sẽ được lên bờ, vướng vào lưới pháp luật trong khi chiếc Vastervik ra khơi.

Bằng ngược lại – như Edgar Kramer đã khôn khéo chỉ ra trong lần gặp đầu tiên – nếu Sở Di trú ban lệnh điều tra, thì coi như Henri Duval được chính thức thừa nhận, như thế là mở đường cho những tiến trình luật pháp chi tiết hơn, bao gồm cả quyền được được kháng án. Và cả điều này nữa, những thay đổi vẫn tốt đẹp khi các tiến trình được mở rộng cho đến khi chiếc Vastervik đã ra khơi để Henri Duval ở lại Canada như một sự đã rồi.

A.R.Butler lại đứng lên. Một chút, chứ không phải tất cả, vẻ điềm tĩnh đã trở lại. Nhưng sau lưng ông, Edgar Kramer đang giận sôi lên.

‘ Thưa Ngài, tôi muốn tuyên bố rằng, Sở Dân quyền và Di trú , theo ý muốn của Ngài – dù rằng, tôi muốn chỉ rõ, không bị bắt buộc về mặt pháp lý, phải làm thế - đã quyết định sẽ tổ chức một cuộc điều tra đặc biệt về trường hợp thân chủ của người bạn tôi, ông Duval.’

Nghiêng người về phía trước, Thẩm phán Willis gay gắt, ‘ Tôi không hề có ý muốn.’

‘ Nếu Ngài vui lòng…’

Vị thẩm phán cương quyết lập lại, ‘ Tôi không hề có ý muốn. Nếu Sở chọn cách tổ chức một cuộc thẩm tra, đó là quyết định của Sở. Nhưng không hề có áp lực trong trường hợp này. Hiểu rõ chứ, ông Butler ?’

A.R.Butler hình như nuốt nước bọt, ‘ Vâng, thưa Ngài. Đã rõ.’

Quay về phía Alan, vị thẩm phán trịnh trọng hỏi, ‘ Ông hài lòng chứ, ông Maitland ?’ Alan đứng lên, đáp, ‘ Vâng, thưa Ngài. Hoàn toàn hài lòng.’

Một cuộc hội ý cấp tốc lần thứ hai giữa A.R.Butler va Edgar Kramer. Người sau hình như đang nhấn mạnh điều gì đó. Viên luật sư gật đầu nhiều lần và sau rốt, mỉm cười. Rồi ông lại đối mặt với quan tòa lần nữa.

‘ Còn một điểm nữa , thưa Ngài.’

‘ Gì ?’

Liếc nhìn về phía Alan, A.R.Butler hỏi, ‘ Ông Maitland có được tự do hội ý thêm về vấn đề này hôm nay không ?’

Thẩm phán Willis cau mày. Thế này là đang phung phí thời giờ. Cuộc hội kiến riêng giữa các luật sư đối nghịch không phải là việc của tòa án.

Nghĩ rằng đã gây bối rối cho Butler, Alan gật đầu đáp, ‘ Có.’ Giờ anh đã đạt được mục tiêu, không có lý gì mà không hợp tác.

Như không biết tới cái nhíu này của vị thẩm phán, A.R.Butler ngọt ngào nói, ‘ Tôi rất vui khi được ông Maitland bảo đảm về việc này vì trong những trường hợp đặc biệt, hình như rất thích đáng để thực hiện ngay việc này. Vì lẽ đó Sở Dân quyền và Di trí đề nghị tổ chức cuộc điều tra đặc biệt ngay sau đây, vào hôm nay tại một thời điểm thích hợp cho ông Mitland và thân chủ của ông.’

Alan nổi quạu nhận ra rằng mình đã rơi vào bẫy của con cáo già. Nếu không vì quá sốt sắng chấp nhận, anh vẫn có thể phản đối, yêu cầu một cách thức khác.

Điểm số, nếu ngươi cho như thế, là hòa.

Quan tòa Willis nghiêm khắc nhìn anh, ‘ Như vậy, vấn đề này coi như giải quyết xong . Đồng ý chứ, ông Maitland ?’

Alan lưỡng lự, liếc qua Tom Lewis. Tom chỉ nhún vai. Alan biết là họ cùng chung ý nghĩ. Một lần nữa, Edgar Kramer lại thấy trước, đoán trước được chiến thuật trì hoãn của họ - vốn liếng duy nhất của họ. Giờ thì, với cuộc điều tra đặc biệt vào chiều nay, những tiến trình luật pháp sẽ kéo dài không đủ lâu để giữ Henri Duval lại trên đất liền cho đến khi chiếc Vastervik ra khơi. Chiến thắng, mà một giây phút trước, ngỡ đã trong tầm tay, giờ lại lùi xa.

Alan do dự nói, ‘ Vâng, thưa Ngài. Đồng ý.’

Trong khi A.R.Butler độ lượng mỉm cười, các phóng viên chen nhau ra cửa. Chỉ còn một người trước mặt họ - Edgar Kramer, bộ mặt căng thẳng và thân hình căng cứng, đang vội vã, gần như chạy, ra khỏi phòng xử.

 

 2.

 

Alan vừa rời phòng xử thì có đến nửa tá phóng viên vây quanh anh, những người này vừa điện thoại tường thuật về tòa soạn.

‘ Ông Maitland, cơ hội là như thế nào ?’ … ‘ Khi nào chúng tôi gặp được Duval ?’ … ‘ Này, Maitland !

– Điều tra đặc biệt là gì vậy ?’ … ‘Nào, nào, đặc biệt về cái gì thế ?’ … ‘ Cho chúng tôi biết về cái trát ấy đi. Trát có thuận lợi cho anh không ?’

Alan quát lên, ‘ Không. Tôi không.’

Các phóng viên tiếp tục kéo đến, nêm chật cứng hành lang vốn đã không còn chỗ trống.

‘ Rồi, cái gì…’

Alan phản đối, ‘ Này. Tôi không thể nói về một vụ án đang còn tiếp diễn. Tất cả các ông đều biết vậy mà.’

‘ Anh bạn giải thích dùm cho ông chủ bút của tôi…’

‘ Để gào cho to, phải cho chúng tôi cái gì chứ !’

Alan nói, ‘ Được thôi.’ Và đột ngột yên lặng. Đám đông cứ chen lấn nhau trong khi người từ các phòng xử khác ùa tới.

‘ Vấn đề chỉ đơn giản là Sở Dân quyền và Di trú đã đồng ý tổ chức một cuộc điều tra đặc biệt về trường hợp thân chủ tôi.’

Vài người đi qua tò mò nhìn Alan.

‘ Ai sẽ điều tra ?’

‘ Thường là một viên chức quan trọng của Sở Di trú.’

‘ Chàng Duval sẽ có mặt chứ ?’

Alan nói ,’ Hẳn rồi. Anh ta phải trả lời các câu hỏi.’

‘ Còn anh thì sao ?’

‘ Vâng. Tôi sẽ có mặt.’

‘ Sẽ tổ chức ở đâu ? – buổi thẩm vấn ấy ?’

‘ Ở văn phòng Sở Di trú.’

‘ Chúng tôi có được vào không ?’

‘ Không. Đây là cuộc thẩm vấn tại Sở và sẽ không mở cửa cho dân chúng hay báo chí.’

‘ Sau đó sẽ có tuyên bố chứ ?’

‘ Về chuyện này ông nên hỏi ông Kramer.’

Có ai đó thì thào, ‘ Thằng cha khó chịu đó !’

‘ Cuộc thẩm vấn có tốt đẹp gì không khi mà anh đã không thể đưa Duval vào đất liền.’

‘ Đôi khi trong một cuộc điều tra thích đáng, vài yếu tố mới sẽ nẩy sinh và biết đâu lại quan trọng.’

Nhưng Alan biết đó chỉ là một hy vọng mong manh. Một cơ hội nếu có, nằm ở việc trì hoãn của luật lệ, nhưng điều này giờ đã hỏng bét.

‘ Ý anh thế nào về những gì xảy ra sáng nay ?’

‘ Rất tiếc, Tôi không có ý kiến về việc đó.’

Tom Lewis lặng lẽ xuất hiện bên cạnh Alan. Alan chào anh, ‘ Chào. Mày biến đi đâu vậy ?’

Đồng nghiệp của anh khẽ đáp, ‘ Tao tò mò về ông Kramer nên tao đi theo ông ấy. Này, mày có ấn định thời gian với ông bạn Butler của mày chưa ?’

‘ Tao nói chuyện với ông ta rồi. Bọn tao thỏa thuận lúc 4giờ.’

Một phóng viên hỏi, ‘ Gì thế ?’

Alan đáp, ‘ Cuộc điều tra đặc biệt được tổ chức lúc 4giờ. Bây giờ các ông tha cho. Từ giờ tới lúc ấy, tôi còn nhiều việc phải làm lắm.’

Thoát được đám đông, anh cùng Tom Lewis chuồn nhanh. Khi đủ xa để các phóng viên không nghe được, Alan hỏi, ‘ Cái gì về ông Kramer vậy ?’

‘ Thực ra không có gì. Ông ta chỉ vội vàng chạy vào nhà vệ sinh. Tao lởn vởn bên cạnh ông ta. Ông ta có vẻ rất đau trong chừng một, hai phút. Tao đoán chừng cái nhà ông tội nghiệp này bị đau tuyến tiền liệt.’

Điều này giải thích sự bứt rứt của Kramer ở phòng xử, sự đau đớn thấy rõ cho đến lúc cuối. Yếu tố này rất quan trọng, Alan xếp nó vào trong trí.

Cùng sóng bước, họ đi đến cầu thang rộng bằng đá dẫn xuống tầng trệt.

Một giọng nói êm ái cất lên phía sau, ‘ Ông Maitland, ông có thể trả lời một câu nữa không ?’

‘ Tôi vừa giải thích…’ Alan quay lại và dừng phắt.

Sharon Devereaux lên tiếng, đôi mắt sâu tỏ vẻ ngây thơ, ‘ Tất cả những gì tôi muốn biết là, các anh định đi ăn trưa ở đâu ?’

Ngạc nhiên và thích thú, Alan hỏi, ‘ Cô ở đâu nhảy ra đây vậy ?’

Tom nói, ‘ Nhảy là một từ …’ anh nhìn vào nón của Sharon, làm bằng nhung và lưới, ‘ làm tôi nhớ đến…’

Sharon cười, ‘ Tôi ở trong phòng xử. Ở phía sau. Tôi không hiểu gì cả. Nhưng tôi nghĩ Alan thật tuyệt, phải không ?’

Tom nói, ‘ Ồ, chắc rồi. Tất nhiên, anh ấy chỉ mới bỏ ông quan tòa vào túi. Nhưng anh ấy thật tuyệt, đồng ý.’

Sharon nói, ‘ Hình như các luật sư không đáp ứng gì cả. Không ai trả lời tôi về chuyện ăn trưa.’

Alan nói, ‘ Tôi không dự định gì hết.’ Rồi mặt sáng lên, ‘ Chúng tôi có thể đãi cô một bữa pizza nhân táo ở tiệm ăn bên phải văn phòng của chúng tôi.’

Họ cùng bước xuống cầu thang, Sharon ở giữa.

Tom dục, ‘ Hay là mì sợi trộn kem đi. Với nước sốt thịt bằm nóng – món này chắc sẽ làm các bạn ứa nước miếng ra.’

Sharon cười, ‘ Ngày nào đó tôi sẽ thích. Điều tôi muốn nói là ông nội nói không biết các anh có muốn gặp ông ấy không. Ông ấy rất thích được nghe chính các anh kể lại mọi việc.’

Ý nghĩ được đi cùng Sharon bất cứ đâu hấp dẫn quá. Alan nghi ngại nhìn đồng hồ.

Sharon đoan chắc với anh, ‘ Không lâu đâu. Ông nội có một dãy phòng ở Georgia. Ông giữ nó phòng khi ông xuống phố, hiện ông đang ở đó.’

Tom tò mò hỏi, ‘ Cô muốn nói, ông giữ phòng suốt sao ?’

Sharon gật đầu, ‘ Tôi biết vậy là hoang phí quá, tôi vẫn luôn nói với ông thế. Nhiều khi hàng tuần liền không sử dụng đến.’

Tom vui vẻ nói, ‘ Ô, tôi không lo chuyện đó đâu. Tôi chỉ lo là tôi chưa bao giờ nghĩ đến nó. Mới hôm kia đây tôi bị mắc mưa dưới phố mà chỉ mỗi tiệm thuốc tây để chui vào.’

Sharon lại cười. Đến chân cầu thang họ ngừng lại

Trong một thoáng, Tom nhìn hết người đến người kia : Sharon hời hợt, vô tình ; Alan , trong giờ phút nghiêm trọng này, cả nghĩ, tâm trí còn ở phòng xử nơi tổ chức cuộc thẩm tra sáng nay. Song với tất cả vẻ lãnh đạm bề ngoài ấy, Tom Lewis nghĩ, vẫn có sự đồng cảm ấm áp giữa hai người. Anh ngờ rằng họ cùng chăm chút cho một điều. Anh tự hỏi họ có hay biết về điều ấy chưa ?

Nhớ lại vợ mình đang mang thai ở nhà, Tom thở dài nhớ lại những ngày còn độc thân vô tư lự.

Alan nói và hiểu điều mình nói, nắm lấy tay Sharon, ‘ Tôi muốn đến lắm. nhưng cô có biết chúng tôi đang vội lắm không ? Tôi phải có mặt trong cuộc điều tra vào chiều nay.’ Chỉ còn đủ thời giờ, anh quyết định – chỉ là xã giao thôi – kể cho Thượng nghị sĩ Devereaux các sự việc.

Sharon hỏi, ‘ Anh Lewis, anh cùng đi với chúng tôi chứ ?’

Tom lắc đầu, ‘ Cám ơn. Nhưng đây không phải là màn trình diễn của tôi. Dù sao, tôi cũng đến khách sạn với các bạn.’

Cùng với Alan và Tom đi hai bên cô cháu gái ông Thượng nghị sĩ, họ rời hành lang vang vọng của tòa nhà Tối cao Pháp viện bằng cửa hông bên đường Hornby. Cái lạnh bên ngoài nơi con đường hẹp như cái hang này thật buốt giá tương phản với cái ấm áp bên trong tòa nhà. Một cơn gió lạnh thổi qua, cuốn lấy họ và Sharon kéo cái áo choàng viền lông chồn sát vào người. Cô có cảm giác hài lòng được ở cạnh Alan.

Tom nói, ‘ Thời tiết của biển cả,’ Có một con đường nhánh thoát ra phía trước và Tom dẫn đường, len lỏi qua dòng xe cộ, về phía tây bắc đường Hornby, quành về đường Tây Georgia. ‘ Đây hẳn là ngày lạnh nhất trong mùa đông.’

Bằng một tay, Sharon cầm chặt cái mũ mỏng manh. Cô bảo Alan, ‘ Mỗi lần nghĩ đến biển, tôi lại nghĩ đến kẻ đi lậu của anh, anh ta sẽ ra sao nếu không bao giờ được lên bờ. Con tàu có tệ như báo chí nói không ?’

Anh sẳng giọng đáp, ‘ Tệ hơn thế nữa.’

‘ Anh có bận tâm nhiều không – tôi muốn nói tâm trí ấy – nếu anh không thắng ?’

Dữ dội đến mức chính mình cũng ngạc nhiên, Alan trả lời, ‘ Tôi rối cả trí đây. Tôi tự hỏi tôi đang ở trong một xứ sở thối tha nào đây, xứ sở gì ruồng rẫy một kẻ không nhà như thế : một người tốt đến thế, trẻ trung đến thế, một vốn quý như thế …’

Tom Lewis nhẹ nhàng hỏi, ‘ Mày có chắc là vốn quý không ?’ Alan tỏ vẻ ngạc nhiên. ‘ Chắc. Còn mày ?’

Tom bảo, ‘ Không. Tao không nghĩ thế.’

‘ Tại sao ?’ Là câu hỏi của Sharon.

Họ đã đến đường Tây Georgia, chờ đèn hiệu rồi băng qua khi đèn xanh. Sharon nằm nì, ‘ Cho tôi biết tại sao đi ?’

Tom nói, ‘ Tôi không biết.’ Họ lại băng qua đường Hornby, đến khách sạn Georgia và ngừng lại, tránh cơn gió thổi từ cửa trước. Có hơi ẩm trong không khí báo hiệu cơn mưa sắp đến. Tom lập lại, ‘ Tôi không biết. Nó là cái mà cô không thể chạm tay vào. Một thứ bản năng vậy mà.’

Alan bỗng hỏi, ‘ Cái gì làm mày cảm thấy thế ?’

‘ Khi trao chỉ thị tạm thời cho thuyền trưởng, tao đã trò chuyện với Duval. Tao có hỏi mày tao có được gặp hắn không, nhớ không ?’

Alan gật đầu.

‘ Phải, tao đã gặp và cố thích hắn. Nhưng tao có cảm giác có một lỗ hổng ở đâu đó; một sơ suất. Cứ như thể hắn đã bị gãy ngay ở giữa – có lẽ không phải lỗi của chính hắn, có lẽ một cái gì đó trong cái nền chuyện của hắn.’

Alan nhíu mày, ‘ Gãy cái gì ?’

‘ Tao đã nói tao không biết chính xác nó là cái gì. Nhưng tao có cảm giác nếu ta đưa hắn lên bờ, cho hắn làm người nhập cư, thì hắn sẽ vỡ ra từng mảnh.’

Sharon nói, ‘ Không phải tất cả những chuyện này đều lờ mờ sao ?’ Cô có cảm giác muốn bảo vệ, như thể cái gì Alan đã để tâm tới đều không thể thất bại.

Tom đáp, ‘ Phải. Đó là lý do tôi đã không lưu tâm đến nó, mãi đến bây giờ.’

Alan nói gọn, ‘ Tao không nghĩ mày đúng. Nhưng cho dù mày đúng, cũng không thay đổi được tình trạng pháp lý – những quyền của hắn và tất thảy cái còn lại.’

Tom Lewis nói, ‘ Tao biết. Đó là cái tao đang tự nhủ với chính tao.’ Anh kéo cao cổ áo,chuẩn bị quay

đi, ‘ Dù sao cũng chúc chiều nay may mắn.’

 

3.

 

 

Những cánh cửa đôi bề thế của dãy phòng khách sạn mười hai tầng đã mở khi Alan va Sharon đến gần, dọc theo hành lang trải thảm, từ thang máy. Suốt lúc đi lên, từ khi chia tay Tom Lewis ở dưới đường, anh có cảm giác phấn khích về sự gần gũi của họ. Nó vẫn còn lởn vởn khi, qua cửa dãy phòng, Alan nhìn thấy một người bồi trọng tuổi, mặc đồng phục, dọn thức ăn trong chiếc xe đẩy – rõ ràng là bữa ăn trưa tự chọn – sang cái bàn trải khăn trắng kê giữa phòng.

Thượng nghị sĩ Devereaux ngồi trên chiếc ghế đu bọc da, lưng quay ra cửa, đối diện với quang cảnh ở cảng. Nghe tiếng Alan và Sharon, ông quay lại mà không đứng lên.

‘ À, cháu cưng. Chúc mừng cháu đã bẫy được người hùng của ngày hôm nay.’ Thượng nghị sĩ chìa tay cho Alan, ‘ Cho phép tôi chúc mừng cậu, chàng trai của tôi, về thành công cực kỳ xuất sắc.’

Alan nắm lấy bàn tay chìa ra. Nhất thời anh thấy xúc động vì vẻ già nua va hom hem của ông Thượng nghị sĩ so với lần gặp trước. Bộ mặt ông xanh mướt, vẻ hồng hào trước đó đã biến đâu mất. Còn giọng nói, yếu đuối xiết bao.

Alan tỏ ra không vui, ‘ Không thành công chút nào cả. Tôi e là một mẩu cũng không.’

‘ Vô lý, chàng trai ơi ! – hẳn là cậu khiêm tốn rồi. Tôi vừa mới nghe bài tụng ca chiến thắng của cậu trên radio đây.’

Sharon hỏi, ‘ Họ nói gì thế ?’

‘ Được mô tả như một chiến thắng mười mươi của loài người chống lại chế độ độc tài ma quỷ của Chính phủ hiện thời.’

Alan ngờ vực, ‘ Có đúng họ dùng những từ như vậy ?’

Ông Thượng nghị sĩ khoát tay khoan khoái, ‘ Có lẽ tôi diễn giải khác đi một chút nhưng thực chất là vậy đó. Còn Alan Maitland, cháng luật sư trẻ cương cường, vũ trang đầy đủ, đã chận đứng được các thế lực đối nghịch.’

‘ Nếu họ nói thế, là họ tưởng tượng quá đấy.’ Người bồi, đang loanh quanh bên cạnh và Alan cởi áo khoác ra, trao nó cho ông, ông này treo nó lên móc rồi lặng lẽ đi ra. Sharon biến mất qua cửa hông. Alan nhìn theo cô, rồi ngồi vào chiếc ghế đặt bên cửa sổ, đối diện với Thượng nghị sĩ. ‘ Chúng ta đang có lợi thế nhất thời, điều đó là có thật. Nhưng chỉ vì một chút ngờ nghệch, tôi đã đánh mất một phần lợi thế đó.’ Anh kể lại

chuyện xảy ra trong phòng thẩm phán và việc anh thấp cơ thua trí A.R.Butler như thế nào.

Thượng nghị sĩ gật đầu thông hiểu, ‘ Dù sao, nỗ lực của cậu cũng đem lại một mối lợi đáng kể .’

Sharon nói khi quay lại nhập bọn, ‘ Hẳn thế.’ Cô đã cởi áo khoác ngoài và mặc bộ bằng len mềm, ‘ Alan đã quá xuất sắc.’

Alan cười, vẻ chịu đựng. Có lẽ phản đối cũng vô ích. Anh nói, ‘ Chúng ta đã tiến xa trong việc làm cho Henri Duval được chấp nhận như một người nhập cư trên bờ.’

Ông già không trả lời ngay, đôi mắt nhìn ra mặt nước phía trước và quang cảnh cảng phía sau. Khi quay đầu, Alan có thể thấy được vụng Burrard, gió thổi làm nổi bọt lốm đốm, bụi nước tung tóe ở bờ Bắc. Một con tàu đang rời bến – một con tàu chở ngũ cốc chìm trong nước, chở khẳm hàng; theo dấu hiệu bên ngoài giống như tàu Nhật. Một chiếc phà tuyến bán đảo Vancouver đi vào, rẽ nước trắng xóa qua cửa sông số một. Ở đâu đó, những chuyến đi và đến khác : những tàu và người, những hàng hóa, mua bán, ngang dọc trong cảng nước sâu.

Thật lâu sau, Thượng nghị sĩ lên tiếng , ‘ Phải, dĩ nhiên, cuối cùng ta đã không đạt được mục tiêu tối hậu là đưa lên bờ gã đi lậu của ta. Người ta có thể thắng một trận đánh và thua một cuộc chiến. Nhưng đừng bao giờ đánh giá thấp tầm quan trọng của các trận đánh, chàng trai của tôi ơi, nhất là, trong các vấn đề chính trị.’

Alan quay về với thực tại, ‘ Tôi nghĩ chúng ta đã kết thúc chuyện đó rồi, thưa Thượng nghị sĩ. Tôi không quan tâm đến chính trị, tôi chỉ làm những gì tốt nhất có thể cho thân chủ tôi.’

Giọng ông già lần đầu tiên có dấu hiệu giận dữ, ‘ Thật thế ! Thật thế ! Và tôi nghĩ là cậu phải thừa nhận cậu chưa đánh mất cơ hội để chỉ rõ ra. Đôi khi, nếu tôi có thể nói thế, không có gì vô vị cho bằng những người trẻ tuổi cứ tự cho mình là chính trực.’

Alan đỏ mặt vì lời khiển trách ấy.

Thượng nghị sĩ nói tiếp, ‘ Nhưng cậu hãy tha thứ cho một chiến hữu già nua, nếu như, một lúc nào đó, tôi vui mừng thái quá trước những hành động khôn ngoan của cậu.’

Alan cố làm cho câu nói nhẹ đi, ‘ Tôi đoán là không có thiệt hại gì cả.’ Anh có cảm giác bất an vì đã tỏ ra thô lỗ.

Có tiếng chuông điện thoại reo sau lưng họ. Người phục vụ lại xuất hiện, trả lời. Alan để ý thấy người này đi lại rất thông thuộc như thể ông rất quen với dãy phòng này và đã phục vụ Thượng nghị sĩ nhiều lần trước đó.

Thượng nghị sĩ nói với Alan và Sharon, ‘ Sao bọn trẻ các người không ăn trưa đi. Dọn sẵn đằng sau đó. Có bất cứ món gì các con cần.

Sharon nói, ‘ Được rồi. Nhưng sao ông nội không ăn chút gì đi ?’

Thượng nghị sĩ lắc đầu, ‘ Có lẽ lát nữa đã, cháu yêu. Không phải bây giờ.’

Người bồi để điện thoại xuống và bước lên phía trước. Ông ta nói, ‘ Thưa Thượng nghị sĩ, gọi cho Ngài từ Ottawa, họ nói ông Bonar Deitz đang trên đường dây. Ngài nhận chứ ạ ?’

‘ Không. Tôi vào phòng ngủ đây.’ Ông già dợm đứng lên, rồi như thể nỗ lực này là quá lớn đối với ông, ông lại ngã xuống.’ Tội nghiệp cho tôi. Hình như hôm nay tôi thấy hơi nặng nề.’

Tỏ vẻ quan tâm, Sharon đến bên ông, ‘ Ông nội, ông không nên gắng sức như thế.’

‘ Nhồi nhét vô nghĩa !’ Ông Thượng nghị sĩ rướn người, cầm lấy tay Sharon và cô giúp ông đứng dậy.

Alan đưa tay ra, ‘ Tôi giúp được không, thưa ông ?’

‘ Không. Cám ơn, chàng trai. Tôi chưa sẵn sàng để chống nạng đâu. Chỉ vì cố vượt quá trọng lực nên tôi cần giúp đỡ chút đỉnh. Tôi luôn chuẩn bị sẵn xe kéo cho mình.’

Nói xong ông đi khuất vào cửa Sharon vừa đi trước đó, và khép hờ nó lại.

Alan lo ngại hỏi. ‘ Ông không sao chứ ?’

Sharon nhìn lên cửa, ‘ Tôi không biết.’ Quay lại phía Alan, cô nói thêm, ‘ Dù có gì, ông cũng không để tôi làm gì cả. Sao lại có những gười ương ngạnh đến thế nhỉ ?’

‘ Tôi không ương ngạnh.’

Sharon cười, ‘ Không nhiều thôi ! Ở anh thì nó đến theo từng đợt. Thôi, ta ăn đi đã.’

Có súp gà kiểu Vichy, tôm nấu trong nồi đất, cánh gà nấu cà ri, lưỡi bò nấu đông dọn kiểu tự chọn.

Người bồi bước vội lên.

Sharon nói, ‘ Cám ơn, chúng tôi tự dọn được rồi.’

‘ Tốt lắm, cô Devereaux.’ Rồi kính cẩn nghiêng đầu, người bồi đóng cánh cửa đôi lại, để họ một mình. Alan lấy vá múc hai đĩa súp gà, đưa một cho Sharon. Họ đứng, sì sụp húp.

Tim Alan đập thình thịch. Anh từ tốn hỏi, ‘ Khi những chuyện này đã kết thúc, anh có thể gặp em một lúc nào đó không ?’

Sharon mỉm cười, ‘ Em mong thế. Bằng không, có lẽ em phải quanh quẩn suốt bên các tòa án.’

Anh như cảm thấy mùi hương nhè nhẹ, mùi hương mà anh đã nhận biết từ khi họ gặp nhau ở tòa nhà trên đường Drive. Và trong mắt Sharon, phản chiếu một nỗi vui nào và có lẽ một cái gì khác nữa.

Alan đặt đĩa súp xuống. Anh nói cương quyết ; ‘ Đưa đĩa của em cho anh.’

Sharon phản đối, ‘ Em chưa ăn xong mà.’

‘ Chẳng sao cả.’ Anh với tay cầm lấy và đặt nó xuống bàn. Anh đưa tay cho Sharon và cô bước về phía anh. Mặt họ sát gần nhau. Anh quàng tay quanh người cô, môi họ chạm nhẹ vào nhau. Anh cảm thấy hạnh phúc đến nín thở, như muốn bồng bềnh trong không gian.

Lát sau, hơi ngượng ngùng, anh vuốt khẽ tóc cô, thì thào, ‘ Anh đã muốn làm điều này ngay từ buổi sáng hôm Giáng sinh.’

Sharon vui sướng nói, ‘ Em cũng thế. Sao anh lại để lâu thế ?’

Họ lại hôn hau. Như thể từ một thế giới xa xôi nào đó, giọng nói Thượng nghị sĩ Devereaux vọng đến, nghèn nghẹn như bị bịt miệng, qua cánh cửa mở hé, ‘ … vậy đây là giờ phút hành động, Bonar … Tất nhiên chú sẽ lãnh đạo Quốc hội … Howden là phe đối lập … huy hoàng, chàng trai ơi, huy hoàng ! …’ Với Alan, những lời này hình như không quan trọng, không liên quan gì tới anh.

Sharon thì thào, ‘ Đừng lo cho ông nội. Ông điện thoại thường xuyên với Ottawa.’ Alan bảo, ‘ Đừng nói nữa. Em đang làm phí thời gian đấy.’

Mười phút sau, giọng nói ngừng và họ buông nhau ra. Giây lát nữa, Thượng nghị sĩ Devereaux chậm chạp bước ra. Ông cẩn thận ngồi xuống chiếc trường kỷ đặt đối diện bàn ăn. Nếu có để ý bàn ăn còn nguyên vẹn, ông cũng chẳng nói gì.

Ngừng đôi chút để lấy lại hơi thở, Thượng nghị sĩ Devereaux nói, ‘ Tôi có vài tin tuyệt lắm.’

Cảm giác như đang trở lại mặt đất, với hy vọng hơi thở vẫn bình thường, Alan hỏi, ‘ Chính phủ đã bỏ cuộc sao ? Họ có cho Duval ở lại không ?’

Ông già lắc đầu, ‘ Không phải. Thực tế nếu chuyện đó xảy ra, nó sẽ làm đảo lộn hết chiến lược của chúng ta.’

‘ Thế thì chuyện gì ?’ Giờ thì Alan đã đứng được hai chân trên mặt đất. Anh thấy mình bị kích động vì, rõ ràng, chính trị vẫn đến trước.

Sharon nói, ‘ Tiến lên đi, ông nội. Tiến lên !’

Thượng nghị trịnh trọng tuyên bố, ‘ Ngày mai ở Ottawa, phe đối lập trong Quốc hội sẽ đưa ra thảo luận ở Hạ viện để ủng hộ người bạn trẻ của chúng ta, Henri Duval.’ Alan hỏi, ‘ Ông nghĩ việc đó có triển vọng gì không ?’

Thượng nghị sĩ đáp ngay, ‘ Nó không làm hại gì cả, phải không ? Và nó làm tên tuổi thân chủ của cậu được nhắc đến rất nhiều trên báo chí.’

Alan thừa nhận, ‘ Phải.’ Và anh gật gù suy nghĩ, ‘ Và nó sẽ giúp được cho chúng ta theo một cách nào đó.’

‘ Chắc chắn là giúp được thôi, chàng trai, Và trước cuộc điều tra đặc biệt vào chiều nay, hãy nhớ là có những người khác đang nhiệt thành ủng hộ cậu cho cùng một mục đích tốt đẹp.’

‘ Cám ơn ông, Thượng nghị sĩ. Tôi sẽ cố.’ Alan nhìn đồng hồ và thấy là tốt hơn anh nên đi. Biết rõ Sharon ở bên cạnh, anh đến phòng vệ sinh nơi người bồi máng cái áo của anh.

Thượng nghị sĩ Devereaux khẽ nói, ‘ Hãy lưu ý là chiều nay, tôi sẽ có một đề nghị nhỏ.’ Vừa khoác áo Alan vừa quay lại, ‘ Vâng, thưa Ngài ?’

Vẻ hài hước hiện lên trong mắt ông già, ‘ Tốt hơn, trước khi dự buổi thẩm tra, cậu nên lau son môi đi.’

 

4.

Bốn giờ kém năm phút, viên thư ký Dở Di trú lịch sự đưa Alan Maitland vào một căn phòng rộng ở mặt tiền tòa nhà Sở Di trú, nơi mà cuộc điều tra đặc biệt về Henri Duval sẽ được tổ chức.

Alan nhận thấy, đó là một căn phòng có công năng rất thực dụng – rộng chừng 4,5m và dài gấp đôi, sàn bằng ván ép đánh verni, bốn vách lắp kính lên tới trần. Một cái bàn đơn sơ, cũng đánh verni, đặt ngay ở giữa, quanh bàn là năm chiếc ghế gỗ xếp gọn gàng. Trên bàn , trước mỗi ghế là một tập giấy và một cây bút chì chuốt nhọn. Bốn cái gạt tàn, xếp đối xứng, đặt cách đều dọc theo chiều dài của bàn. Trên chiếc bàn nhỏ bên cạnh là vài cái ly và một bình nước đá. Không có gì khác.

Có ba người đã đến trước Alan. Một là cô tốc ký tóc đỏ, đã ngồi sẵn, sổ tay mở sẵn trang giấy trắng, đang uể oải nhìn bộ móng tay cắt tỉa gọn gàng của mình. Người thứ hai là A.R.Butler, lơ đãng một cách trang nghiêm ở góc bàn. Đang tán gẫu với Butler là một người to lớn dềnh dàng, bộ ria tỉa tót như lông bàn chải, người đã đi cùng Edgar Kramer sáng nay.

A.R.Butler nhìn thấy Alan trước.

‘ Chào và chúc mừng !’ Vị luật sư già đời vừa tươi cười thân mật , vừa đưa tay ra. ‘ Theo các báo chiều nay, chúng ta đang chào đón một người hùng của dư luận. Tôi nghĩ anh đã đọc rồi.’

Bối rối, Alan gật đầu. ‘ Vâng, có lẽ tôi đọc rồi.’ Anh có mua vài tờ, bản in sớm của tờ Post và tờ Colonist ngay khi chia tay Sharon và ông Thượng nghị sĩ. Trong cả hai tờ, buổi thẩm vấn trong phòng thẩm phán được đặt ngay trên trang đầu, với hình ảnh của Alan nổi rõ lên. Bài tường thuật của tờ Post đã dùng những từ như “ những chiêu thức pháp lý độc đáo “ , “ một đòn thành công của Maitland” và “chiến thắng của chiến thuật”. Tờ Colonist, vẫn không sôi nổi như tờ Post về Henri Duval, tán dương có kém hơn, và hầu hết các sự kiện đều được tường thuật chính xác và hợp lý.

A.R.Butler nói một cách chân tình, ‘ Phải, các luật sư chúng ta ở đâu nếu không có báo chí. Dù không đúng đi nữa, đó cũng là một cách quảng cáo cho chúng ta. Ô, nhân tiện, anh có biết ông Tamkynhil không nhỉ ?’

Alan nói, ‘ Không. Tôi nghĩ là không biết.’

Người để ria nói, ‘ George Tamkynhil.’ Họ bắt tay nhau. ‘ Tôi đại diện cho Sở. Tôi sẽ điều hành cuộc thẩm vấn.’

A.R.Butler nói, ‘ Ông Tamkynhil có rất nhiều kinh nghiệm trong loại sự việc này. Anh sẽ thấy ông ấy rất công bằng.’

‘ Cám ơn.’ Alan tự nhủ là ông cứ chờ sẽ thấy. Nhưng ít ra anh cũng vui mừng rằng viên chức thẩm vấn không phải là Edgar Kramer.

Có tiếng gõ nhẹ và cửa mở ra. Một nhân viên Sở Di trú mặc đồng phục đưa Henri Duval vào.

Lần đầu khi Alan Maitland gặp kẻ đi lậu trẻ tuổi, trong Duval dơ bẩn và dính đầy dầu mở, tóc rối bù vì lao động dưới đáy tàu Vastervik. Bây giờ, trái lại, trông anh sạch sẽ và chải chuốt, mặt mới cạo, mái tóc đen dài chải gọn gàng, y phục rất giản dị : vẫn như trước, quần vải bông có vài miếng vá, áo thủy thủ xanh dương có vết mạng, đôi giày vải cũ – Alan nghĩ, có lẽ đồ vất đi của một thủy thủ nào đó trên tàu.

Nhưng cũng như thường lệ, chính là khuôn mặt và đôi mắt làm người ta chú ý : khuôn mặt tròn trĩnh, khỏe mạnh, rất thanh niên, đôi mắt sâu thẳm, thông minh và đáng yêu, với vẻ thận trọng cố hữu.

Một cái gật đầu của Tamkynhil, nhân viên mặc đồng phục rút lui.

Đứng bên cửa, cái nhìn của Henri Duval lướt nhanh từ người này sang người kia. Khi nhìn thấy Alan sau cùng, một nụ cười nồng ấm nở trên môi.

‘ Khỏe chứ, Henri ?’ Alan bước tới để họ gần nhau. Anh đặt tay lên tay Henri Duval để anh này an tâm hơn.

‘ Tôi khỏe, khỏe lắm.’ Henri Duval gật đầu, rồi nhìn vào mặt Alan và hỏi đầy hy vọng. ‘ Giờ tôi làm việc ở Canada, ở lại chứ ?’

Alan lắc đầu, ‘ Không, Henri. Chưa đâu. Tôi e vậy. Nhưng quý ông đây sẽ hỏi anh vài câu. Đây là một cuộc điều tra.’

Chàng trai nhìn quanh. Vẻ căng thẳng, anh hỏi, ‘ Anh ở lại với tôi hả ?’

‘ Phải, tôi ở lại.’

Tamkynhil xen vào, ‘ Ông Maitland.’

‘ Vâng.’

Viên chức điều tra nhã nhặn nói, ‘ Nếu anh muốn nói chuyện riêng với chàng trai này, chúng tôi sẽ vui lòng rút lui.’

Alan thừa nhận, ‘ Cám ơn ông. Tôi không cho điều này là cần thiết. Dù sao, nếu như tôi có thể giải thích cho anh ấy …’

‘ Dĩ nhiên thôi.’

‘ Henri, đây là ông Tamkynhil ở Bộ Di trú Canada, và ông Butler, ông ấy là luật sư.’ Trong khi Alan nói, Duval quay đầu nhìn hết người này sang người khác và mọi người đều gật đầu thân mật với anh. ‘ Họ sẽ đặt cho anh vài câu hỏi và anh phải trả lời thành thật . Nếu không hiểu bất kỳ điều gì, anh phải nói ra và tôi sẽ giải thích. Anh hiểu chưa ?’

Gã đi lậu hăng hái gật đầu. ‘ Tôi nói thật. Nói thật mọi lúc.’

A.R.Butler nói với Alan, ‘ Nhân tiện, tôi không hỏi gì đâu. Tôi có mặt ở đây chỉ để quan sát thôi.’ Ông cười thân mật, ‘ Anh có thể nói rằng công việc của tôi là bảo đảm cho luật pháp được canh chừng cẩn mật.’ Alan nói đầy ngụ ý, ‘ Vấn đề này, cũng là việc của tôi.’

George Tamkynhil đã ngồi vào ghế ở đầu bàn, ông nói một cách dứt khoát, ‘ Vâng, thưa quý vị. Nếu quý vị đã sẵn sàng, chúng ta có thể bắt đầu.’

Alan Maitland và Henri Duval ngồi cùng một bên bàn, cô thư ký và A.R.Butler ngồi đối diện. Tamkynhil mở một tập hồ sơ trước mặt ông, lấy một tờ ở trên và đưa bản sao cho cô thư ký. Bằng một giọng rõ ràng và cẩn thận, ông đọc, ‘ Đây là cuộc điều tra được tổ chức theo quy định của Luật Nhập cư tại Sở Di trú của Canada, thuộc Vancouver, tỉnh British Columbia, vào ngày 4 tháng giệng,do tôi, George Tamkynhil, nhân viên điều tra đặc biệt, được bổ nhiệm chính thức do Bộ trưởng Bộ Dân quyền và Di trú theo khoản 1, điều 2 của Luật Nhập cư.’

Phần còn lại của câu chữ cứng ngắc cứ ngân nga lên. Alan nghĩ, tất cả đều đúng một cách đáng ghét. Anh chẳng mấy hy vọng ở cuộc điều tra này; hoàn toàn không thể nào Bộ lại dành lấy một cơ sở vững chắc như kết quả của một cách thức họ đã nắm chắc, nhất là không có yếu tố mới nào phát sinh. Lại nữa, vì anh đã yêu cầu thực hiện điều này, nên các phương pháp – tất cả - đều phải được quan sát. Ngay cả bây giờ, anh cũng tự hỏi có đạt được điều gì bằng nỗ lực riêng của mình không. Song le, trong luật, mỗi lần anh chỉ có thể đi từng bước, và hy vọng sẽ có cái gì đó lật sấp trước khi đi bước kế.

Bản tin kết thúc, Tamkynhil hỏi Henri Duval, ‘ Anh có hiểu tại sao cuộc điều tra này được tổ chức không?’

Gã đi lậu trẻ tuổi hào hứng gật đầu, ‘Vâng, vâng. Tôi hiểu mà.’

Tamkynhil nói, sau khi đọc một tờ giấy, ‘ Nếu anh muốn , và với tiền riêng của anh, anh có quyền có luật sư cố vấn trong cuộc điều tra này. Có phải ông Maitland đây là cố vấn của anh không ?’ Lại gật đầu, ‘ Phải.’

‘ Anh có sẵn lòng thề trên Kinh Thánh không ?’

‘ Có.’

Theo nghi thức thông thường, Duval xác nhận rằng anh sẽ nói sự thật. Cô thư ký viết bằng chữ thường, móng tay sơn bóng lấp lánh, “ Henri Duval đã thề đúng cách thức.”

Bây giờ, để hồ sơ sang bên, Tamkynkil vuốt ria suy nghĩ. Alan biết rằng từ giờ trở đi, các câu hỏi không phải là diễn tập nữa.

Tamkynhil hỏi một cách giản dị, ‘ Tên thật của anh là gì ?’

‘ Tên tôi, là Henri Duval.’

‘ Anh có bao giờ dùng tên nào khác không ?’

‘ Không bao giờ. Đó là tên cha tôi đã tặng cho tôi. Tôi không bao giờ gặp ông. Mẹ tôi kể cho tôi biết.’

‘ Anh sinh ở đâu ?’

Đây là sự lập lại những câu hỏi Duval đã trải qua – đầu tiên là từ Dan Orliffe, rồi đến Alan Maitland, từ khi anh đến đây mười hai ngày trước.

Đều đều, mỗi lần là một câu trả lời ngắn, những câu hỏi và đáp cứ tiếp tục. Alan phải thừa nhận rằng Tamkynhil là một điều tra viên tài năng và có lương tâm. Những câu hỏi đều đơn giản, rõ ràng và êm ái. Rất thực tế, ông giải quyết các sự kiện theo một thứ tự ngày tháng chính xác. Ở đâu có trở ngại ngôn ngữ, ở đó sẽ có hiểu lầm, khi ấy ông kiên nhẫn quay lại để làm rõ. Không vội vàng, không đe dọa, không cố ghi điểm, cũng không mưu mẹo. Không một lúc nào Tamkynhil cao giọng cả.

Mỗi câu hỏi đều được cô thư ký ghi lại đúng cách thức. Alan nhìn nhận biên bản cuộc thẩm vấn là một kiểu mẫu chuẩn mực và tất nhiên, khó mà phản đối, nếu cho là nó sai sót hay không rõ ràng. A.R. Butler, qua việc thỉnh thoảng lại gật gù, rõ ràng là cũng nghĩ thế.

Câu chuyện, sáng lên từng điểm một, như Alan đã nghe trước đó, việc sinh nở đơn độc trên con tàu vô danh; chuyến trở vế Djbouti; tuổi thơ – nghèo đói và lang bạt, nhưng ít nhất cũng có tình yêu thương của người mẹ … Sau đó, nỗi cô đơn khủng khiếp : một con thú ăn thịt xuất hiện trong khu của người bản xứ; ông già Somali đã cho anh chỗ trọ. Rồi lại lang thang một lần nữa, nhưng lần này một mình. Từ Ethiopi đến Somali thuộc Anh … lại Ethiopi … đi theo đoàn lạc đà ; lương thực có nhờ làm việc ; băng qua biên giới theo những đứa trẻ khác …

Rồi, không còn là đứa trẻ nữa, không được vào Somali thuộc Pháp, nơi mà anh cứ tưởng là quê hương mình … Sự thật kinh hoàng khi biết mình không thuộc về đâu, chính thức là không tồn tại, không có bất cứ giấy tờ gì … Chuyến quay về Massawa, việc ăn cắp trên đường đi ; việc phát hiện ra anh trong chợ ; cuộc trốn chạy bất ngờ ; nỗi kinh hoàng … cuộc rượt đuổi … và con tàu Italy.

Cơn giận của ông chủ tàu người Ý ; sự tàn nhẫn của viên thuyền trưởng, gần chết đói và cuộc trốn chạy sau cùng … Bến tàu ở Beirut : lính gác ; lại nỗi kinh hoàng ; và những bóng tối sừng sững ; đắm chìm trong nỗi tuyệt vọng – trở lại là kẻ đi lậu trên con tàu lặng lẽ.

Việc lộ ra trên con tàu Vastervik ; thuyền trưởng Jaabeck ; những tấm lòng tử tế đầu tiên ; những cố gắng đưa anh xuống tàu ; những sự từ khước ; chiếc Vastervik , nhà tù … hai năm dài ; tuyệt vọng ; từ chối … những cánh cửa đóng chặt ở mọi nơi ; châu Âu; Trung Đông ; Anh quốc; và Hoa kỳ với nền tự do khoác lác … Canada, hy vọng cuối cùng …

Trong khi đang nghe, Alan Maitland tự hỏi, có ai nghe mà không cảm động ? Anh nhìn nét mặt Tamkynhil. Anh chắc là có xúc động. Hai lần viên chức này lưỡng lự khi hỏi, trông có vẻ nghi ngờ, lấy tay vuốt ria, có lẽ nào tình cảm làm ông ta dừng lại ?

A.R.Butler không cười nữa. Một đôi lúc ông nhìn xuống tay mình.

Nhưng tình cảm không tạo ra một vấn đề nào khác.

Gần hai giờ đã trôi qua. Cuộc thẩm vấn gần đến chỗ kết thúc.

Tamkynhil hỏi, ‘ Nếu được phép ở lại Canada , anh sẽ làm gì ?’

Sôi nổi – dù vừa qua một cuộc thẩm vấn dài dằng dặc – kẻ đi lậu trẻ tuổi trả lời, ‘ Trước hết tôi sẽ đi học, rồi đi làm việc.’ Anh nhắc lại, ‘ Tôi làm việc tốt.’

‘ Anh có tiền bạc gì không ?’

Hãnh diện, Henri Duval đáp, ‘ Tôi có 7 đô la 30 xu.’

Alan biết đó chính là số tiền mà những người tài xế xe buýt đã quyên góp trong Ngày Áp Lễ Giáng sinh.

‘ Anh có vật dụng cá nhân nào không ?’

Lại sôi nổi. ‘ Vâng, thưa ông – có nhiều : quần áo, một cái radio, một cái đồng hồ. Người ta cho tôi những thứ này, và trái cây nữa. Họ cho tôi đủ thứ. Tôi cám ơn họ rất nhiều, những người tử tế.’

Sau rốt Tamkynhil hỏi, ‘ Có ai dành cho anh một công việc nào chưa ?’

Alan xen vào, ‘ Nếu tôi có thể trả lời …’

‘ Sao, ông Maitland .’

Lục trong cặp hồ sơ, Alan lấy ra hai tờ giấy, ‘ Trong vài ngày qua, đã có rất nhiều thư tốt lành.

Trong một thoáng nụ cười trở lại trên mặt A.R. Butler. . Ông nói, ‘ Vâng, tôi chắc rằng phải có rất nhiều.’

Alan giải thích, ‘ Đây là hai thư mời làm việc. Một là của Công ty Cơ khí Cựu Chiến binh, một của Công ty Tàu kéo Columbia, họ sẽ cho Duval làm việc trên tàu.’

‘ Cám ơn.’ Tamkynhil đọc những thư Alan đưa cho ông, rồi chuyển cho cô thư ký, ‘ Xin ghi tên.’

Sau khi trả thư lại, viên chức điều tra hỏi, ‘ Ông Maitland, ông có muốn thẩm vấn chéo ông Duval không ?’

Alan nói, ‘ Không.’ Dù thế nào đi nữa, mọi thủ tục đã diễn ra một cách hoàn hảo, không thể đòi hỏi gì hơn.’

Tamkynhil lại vuốt ria mép và lắc đầu. Ông mở miệng định nói rồi dừng lại. Thay vì thế, ông lục trong đống hồ sơ trước mặt mình và lấy ra một tờ giấy in. Trong khi những người khác chờ đợi, ông điền vào tờ đơn này bằng bút mực.

Alan nghĩ, được thôi – Một lần nữa nó lại đến đây.

Tamkynhil nhìn thẳng vảo gã đi lậu trẻ tuổi, ‘ Ông Duval,’ rồi cụp mắt xuống nhìn vào tờ giấy in. Ông đọc khẽ, ‘ Dựa trên căn bản những bằng chứng được viện dẫn trong cuộc điều tra này, tôi đi đến quyết định rằng, ông không đươc quyền vào hay ở lại Canada và đã rõ ông là một đối tượng bị cấm như mô tả trong đoạn (t) điều 5 của Luật Nhập cư, theo đó, ông đã không thỏa mãn hay đáp ứng các điều kiện hay yêu cầu trong các khoản 1, 3, và 8 điều 18 của Quy định Nhập cư.’

Ngừng lời, Tamkynhil lại nhìn Henri Duval rồi cương quyết đọc tiếp, ‘ Do đó, tôi ra lệnh cầm giữ và trục xuất ông về lại nơi mà từ đó ông đến Canada , hoặc về quốc gia nào mà ông là công dân hay mang quốc tịch, hoặc tới một quốc gia nào được chứng minh bởi ngài Bộ trưởng …’

Cầm giữ và trục xuất … đoạn (t) của điều 5 …khoản 1, 3, và 8 điều 18.

Alan Maitland nghĩ, chúng ta mặc quần áo cho thổ dân một cách lịch sự và gọi là họ được khai hóa. Chúng ta là Pontius Pilate (Toàn quyền La Mã ở xứ Judea, được cho là đã kết án và xử tử Chúa Jesus), tự lừa dối mình rằng ta là một đất nước Thiên chúa. Chúng ta chấp nhận hàng trăm người bị lao phổi và đấm ngực tự mãn, không biết đến hàng triệu con người khác, bị hủy hoại trong một cuộc chiến tranh mà Canada đã giàu lên từ đó. Bằng cách cho nhập cư có chọn lọc, từ chối cấp thông hành, chúng ta đã kết án nhiều gia đình và trẻ con đến chỗ khốn cùng và đôi khi, chỗ chết. Chúng ta hủy diệt, đập vỡ một con người đơn độc, hợp lý hóa nỗi ô nhục của chúng ta. Và dù chúng ta làm gì đi nữa, nhân danh một nền đạo đức nào, đã có luật và quy định … đoạn (t) điều 5 … khoản 1, 3, và 8 điều 18.

Alan đẩy ghế ra sau và đứng dậy. anh muốn ra khỏi căn phòng này, hít thở làn gió mát ngoài kia, không khí trong lành ở đó …

Henri Duval ngước lên, nét mặt trẻ thơ lo lắng. Anh chỉ hỏi độc một câu, ‘ Không ?’

‘ Không, Henri.’ Alan chậm chạp lắc đầu, rồi đặt tay lên vai kẻ đi lậu trong chiếc áo thun màu xanh có vết mạng. ‘ Tôi rất tiếc. Tôi đồ rằng anh đã gõ nhầm cửa.’

 

 

 

 

 


Đăng nhập để gửi phản hồi cho bài viết