ĐỀN BÀ KIỆU VÀ ĐẠO MẪU Ở VIỆT NAM

ĐỀN BÀ KIỆU VÀ ĐẠO MẪU Ở VIỆT NAM

 

Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam có từ bao giờ? Không có tài liệu nào ghi nhận. Nhưng nơi thờ Mẫu sớm nhất là Đền Bà Kiệu. Ngoài đền còn có Phủ (Phủ Giầy ở Nam Định, Phủ Tây Hồ ở Hà Nội là 2 nơi thờ thánh mẫu Liễu Hạnh)

Từ “Phủ” đã xuất hiện trong tự điển Việt-Bồ-La (1651), với 2 nghĩa, Phủ Đàng (giờ gọi là Đường) và Phủ Thờ. Trong cuốn “Mặt gương Tây Hồ” nhà nghiên cứu Hà Nội Nguyễn Vinh Phúc nhận định: “Những nơi thờ mẫu gọi là đền nhưng đặc biệt những nơi có liên quan mật thiết với Mẫu Liễu Hạnh (nơi sinh, nơi hiển thánh)… thì gọi là phủ”. (Chu Xuân Giao, Truy tìm những khoảnh khắc chân thực_ Về thời điểm xuất hiện của Phủ Tây Hồ)

Đền Bà Kiệu là ngôi đền thờ Mẫu Liễu Hạnh, theo nhiều tài liệu, là ngôi đền Mẫu xưa nhất Việt Nam.

Đền được xây dựng từ đầu thế kỷ 17, vào niên hiệu Vĩnh Tộ (1619 - 1628). Khi mới xây dựng, khu vực này chỉ có đền chính. Sau đó mới có thêm cổng Tam Quan vào cuối niên hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1786) và quả chuông đồng năm Cảnh Thịnh thứ 8, thời Tây Sơn (1800).

Không ai biết tại sao lại gọi là đền Bà Kiệu, chỉ chắc chắn một điều rằng nơi đây thờ các vị nữ thần bao gồm: Thánh Mẫu Liễu Hạnh và hai thị nữ Quỳnh Hoa - Quế Hoa. Về câu chuyện đền Bà Kiệu thờ ai, tích xưa kể rằng: Công chúa Liễu Hạnh vốn là con gái của Ngọc Hoàng, nhưng vì không may làm vỡ chén ngọc mà bị đày xuống trần gian. Khi hạ thế, nàng dạy dân chúng làm nông và xây dựng cuộc sống. Kết thúc thời gian đày ải, công chúa trở lại trời. Nhưng vì nhớ nhung trần gian mà nhiều lần nàng cùng các thị nữ đi xuống để tiếp tục giúp đỡ dân chúng.

Nhờ những công lao to lớn của mình, công chúa Liễu Hạnh được tôn vinh là một vị thánh, được dân chúng nhớ ơn và lập đền thờ phụng. Theo đó, Mẫu Liễu chính là một trong “Tứ Bất Tử” và được coi là bậc "Mẫu Nghi Thiên hạ", thuộc hàng “Đệ nhất Thượng đẳng thần” trong tâm thức tín ngưỡng dân gian.

Đền Bà Kiệu vào năm 1896 (wikipedia)

 

Khi người Pháp chiếm lấy Hà Nội và mở rộng phố xá chung quanh hồ Gươm thì vị trí đền Bà Kiệu bị trưng dụng. Năm 1891 niên hiệu Thành Thái thứ hai, một phần đất của ngôi đền phải giao cho chính phủ để đắp "Boulevard Francis Garnier" (sau năm 1954 là đường Đinh Tiên Hoàng). Con đường cắt ngang khu đền ra làm đôi: cổng tam quan phía tây nằm ở phía bờ hồ còn nhà đại bái, phương đình và hậu cung thì nằm bên phía đông đường.

Cổng tam quan bên trái, ngay bờ Hồ; bên phải là đền chính; phố Đinh Tiên Hoàng ở giữa (Chùm ảnh: Đền Bà Kiệu - ngôi đền cổ bị 'cắt đôi' của Hà Nội - Redsvn.net)

PHỦ TÂY HỒ

Nói đến nơi thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Hà Nội, nhiều người chỉ biết đến Phủ Tây Hồ chứ ít biết đến Đền Bà Kiệu.

Nhiều tài liệu cho là phủ Tây Hồ có từ thế kỷ 16, dựa vào truyền thuyết cuộc gặp gỡ giữa Mẫu Liễu Hạnh và Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan, nhưng theo TS Chu Xuân Giao thì phủ chỉ có từ đầu thế kỷ 20 (Truy tìm những khoảnh khắc chân thực của lịch sử, về thời điểm xuất hiện phủ Tây Hồ, Chu Xuân Giao).

Tác giả Nguyễn Vinh Phúc cho biết thêm về Phủ Tây Hồ:

Mẫu Liễu Hạnh ngự trị ở nhiều phường thôn, nổi tiếng nhất Hà Nội là Phủ Tây Hồ. Ngoài ra còn được thờ như thành hoàng của làng Khán Xuân.

Hiện nay có thể nói không một đền phủ nào ở Hà Nội mà lại có đông người đến cúng lễ như phủ Tây Hồ. Nhất là rằm, mùng một con nhang đệ tử rầm rập tới dâng hương suốt từ sáng đến tối, coi đây là một “tối linh từ” tức ngôi đền cực kỳ linh thiêng (tlđd)

 

Đó là Đền, là Phủ, nơi thờ phụng Thánh Mẫu Liễu Hạnh, vị nữ thánh duy nhất và đặc trưng của Việt Nam.

Về nguồn gốc của Đạo Mẫu, có quan điểm khác biệt của học giả Lê Văn Siêu (Việt Nam văn minh sử cương) và nhà nghiên cứu GS Ngô Đức Thịnh (Đạo Mẫu Việt Nam). Dưới đây là tóm tắt những nét chính:

 

 

ĐA THẦN GIÁO VÀ ĐẠO TIÊN TÓM LƯỢC

(trích Việt Nam văn minh sử, Lê Văn Siêu)

“Khi ra tới vùng Phong Châu, người Giao Chỉ còn nếp tin tưởng phiếm thần cũ và không thay đổi niềm tôn kính tù trưởng là người thay mình cảm thông được với thần linh để xin ban ân phước... Sắc thái đặc biệt phần nào trong tín ngưõng của người Giao Chỉ là Đạo Tiên, với ước mơ một cuộc sống trường sinh bất tử ở cõi vô hình, ngoài thế giới phàm tục... Tản Viên sơn thần ở núi Tản Viên là một trong bốn vị bất tử theo tin tưởng cũ.

ĐA THẦN GIÁO CỔ SƠ

“Người Giao Chỉ trước những hiện tượng thiên nhiên ở Phong Châu như mưa, gió, bão, sấm, nước lụt, lửa, sáng, tối, v.v... đã chiêm nghiệm ra thấy năng lực vĩ đại quá, cũng như ở Cửu Châu, khiến cho con người không bao giờ làm nổi, nên phải kinh sợ và cho mỗi hiện tượng ấy là một huyền năng của một vị thần. Đó hoặc là hang động núi non, trên bộ, dưới nước, trên mây, hoặc là cái cây cao bóng cả âm u, cái cục đá lâu ngày hấp thụ tinh khí của trời đất, hoặc là con cọp, con ngựa, con rắn, hoặc nữa là những đồ thờ, cái trồng đồng, cái bình đốt nhang trầm, cái đèn, cái ngai thờ, cái nhà để thờ ... Nhờ trung gian của ông thầy pháp mà thường là các tù trưởng để con người tiếp xúc với thần linh.. Cuộc sống của người Giao Chỉ Văn Lang đã hết sức giản dị. Các thần cũng đã chỉ liên hệ với nhau rất lỏng lẻo và hết sức giản dị như thế.

 

ĐẠO TIÊN

“Đạo Tiên là một sắc thái đặc biệt trong tín ngưỡng của người Giao Chỉ. Nguyễn Văn Huyên, hội viên trường Viễn Đông (Bác cổ Pháp, đã viết trong sách Le culte des Immortels en Annam . (Sự thờ kính những vị bất tử ở Việt Nam). “ Từ thượng cổ người ta đã than thở về sự ngắn ngủi của đời sống trần gian. Vậy nên người Việt Nam tin vào đời sống của một thế giới bên kia về sau. Trên bờ biển xa xăm theo người này, hav siêu việt trên mổ̃i từng mây cao thâm theo người khác. Hầu hết khao khát một cuộc sống lâu dài và ham muốn theo đuổi tự do những ngày sống trong trạng thái bất tử, vĩnh cửu, theo kiểu những thần tiên của núi xanh, điện vàng và ngọc, có vườn đào bao quanh, có mây biếc và hồng phủ kín.

Sách Đại Nam Nhất Thống Chí, tỉnh Sơn Tây, mục Son Xuyên, đã kê ra quanh vùng Phong Châu có trên 20 ngọn núi, mà gần như núi nào cũng có hoặc chùa hoặc đền miếu để thờ cúng. Núi Tản Viên thờ Tản Viên sơn thần. Núi Sài Sơn có chùa Thầy thờ Thiền Sư Đạo Hạnh. Núi Nghĩa Cương có đền thờ Hùng Vương. Rồi núi Tử Trầm, núi Tam Đảo, núi Không Lộ, Viên Sơn, Mộng Sơn, Phục Tượng, Lôi Sơn v.v... đều có đền miếu chùa chiền.

Dù sao đạo Tiên cũng đã tự nhiên nảy ra ở thời thượng cổ của người Giao Chỉ mà không cần đợi đến ngày đạo Lão du nhập.”

(Việt Nam văn minh sử, Lê Văn Siêu)

 

ĐẠO MẪU VIỆT NAM  (theo GS Ngô Đức Thịnh)

 

“Đạo Mẫu hình thành và phát triển trên cái nền thờ Nữ thần và Mẫu thần bản địa, rồi tiếp thu những ảnh hưởng của Đạo giáo dân gian Trung Hoa để hình thành và phát triển đến đỉnh cao là đạo thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Sau đó vào thế kỷ XVII-XVIII khi Mẫu Tam phủ, Tứ phủ được định hình và phát triển thì Tam phủ, Tứ phủ hóa tục thờ Nữ thần, Mẫu thần.

“Đạo Mẫu theo chân người Việt di cư vào phương Nam, giao thoa tiếp biến với các tục thờ Mẫu của người Chăm, Khơme từ đó tạo nên các dạng thức địa phương của Đạo Mẫu, trong có có 3 dạng thức chính: Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ.

“Chúng tôi dùng tên gọi “Đạo Mẫu”  để gọi hiện tượng tín ngưỡng dân gian nguồn cội bản địa. Có thể nói hiếm có một dân tộc nào trên thế giới lấy hình tượng người Mẹ (Mẫu) để tôn thờ, gởi gấm vào đó những ước vọng tốt đẹp, sự che chở trong một thế giới đầy biến động.

“Lên đồng (Shaman) có mặt ở nhiều loại hình tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam, nhưng không ở đâu như trong đạo Mẫu, tục Lên đồng phát triển mạnh và tạo nên một sắc thái độc đáo như vậy. Xem xét bối cảnh Lên đồng trong bối cảnh đạo Mẫu sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn tục thờ Mẫu, xóa bớt đi những mặc cảm và thành kiến xã hội đối với tín ngưỡng này.

“Để từ tục thờ Thần, Nữ thần và Mẫu thần phát triển lên thành Đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ thì những ảnh hưởng của Đạo giáo Trung quốc có vai trò quan trọng. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Đạo giáo Trung hoa du nhập vào nước ta khá sớm, ít nhất cũng trong thời Bắc thuộc.

Thời Đinh, Tiền Lê, Lý và Trần thờ Lão giáo là một trong “Tam giáo đồng nguyên”. Đến thời Lê, Nho giáo thịnh đạt, Đạo giáo không được coi trọng, nhưng triết lý cũng như phép thuật của nó không phải không lưu hành rộng rãi.

“Đạo Mẫu và các tín ngưỡng dân gian khác tiếp thu ảnh hưởng của Đạo giáo Trung quốc về nhiều phương diện, quan niệm Tứ phủ, Tam phủ, một số vị Thánh của Đạo giáo thâm nhập vào điện thần tứ phủ như Ngọc Hoàng, Thái Thượng Lão quân, Nam Tào, Bắc Đẩu.

“Như vậy, trên cơ sở tín ngưỡng Mẫu thần dân gian, với những ảnh hưởng của Đạo giáo Trung quốc, hình thành và định hình đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ (Tam tòa Thánh Mẫu), một thứ đạo giáo đặc thù của Việt Nam.

“Đạo Mẫu cũng tiếp thu những ảnh hưởng của tục thờ cúng tổ tiên, một tín ngưỡng có vai trò quan trọng hàng đầu trong tín ngưỡng Việt Nam. Điện thờ của Đạo Mẫu mang tính gia tộc có Vua Cha, Thánh Mẫu, có “Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ”, chẳng qua cũng là một dạng phóng đại của mô thức gia đình và thờ cúng tổ tiên. Chúng tôi ngờ rằng việc thờ Cô và Cậu của Đạo Mẫu có cội nguồn sâu xa từ việc thờ cúng những người chết trẻ , Bà Cô, Ông Mãnh, một yếu tố rất quan trọng trong thờ cúng tổ tiên ở các gia đình và dòng họ.

“Trong quá trình đạo Phật du nhập vào nước ta, giữa đạo Phật và đạo Mẫu có sự thâm nhập và tiếp thu ảnh hưởng lẫn nhau khá sâu sắc. Điều dễ nhận biết là ở hầu hết các ngôi chùa hiện nay ở Bắc và Bắc Trung bộ đều có điện thờ Mẫu. Trong đó phổ biến nhất là dạng “tiền Phật hậu Mẫu”. Phải chăng theo nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền thì việc xuất hiện điện Mẫu, và tượng Mẫu trong chùa mới chỉ thấy ở giai đoạn muộn? Người ta đi chùa vừa để lễ Phật vừa để cúng Mẫu. Nhiều khi điện Mẫu đã tạo nên không khí “ấm cúng” nhộn nhịp hơn cho các ngôi chùa làng. Có nhiều ngôi chùa ở Nam bộ lại thờ Mẫu là chính như chùa Hang ở Linh Sơn (núi Bà Đen) hay chùa Bà ở Thành phố Hồ Chí Minh.”

 

Như vậy, quan điểm của học giả Lê Văn Siêu và GS Ngô Đức Thịnh có đôi chút khác biệt.

Theo học giả Lê Văn Siêu thì “dù sao đạo Tiên cũng đã tự nhiên nảy ra ở thời thượng cổ của người Giao Chỉ mà không cần đợi đến ngày đạo Lão du nhập”.

Còn GS Ngô Đức Thịnh thì “Đạo Mẫu hình thành và phát triển trên cái nền thờ Nữ thần và Mẫu thần bản địa, rồi tiếp thu những ảnh hưởng của Đạo giáo dân gian Trung Hoa để hình thành và phát triển đến đỉnh cao là đạo thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ.

Để từ tục thờ Thần, Nữ thần và Mẫu thần phát triển lên thành Đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ thì những ảnh hưởng của Đạo giáo Trung quốc có vai trò quan trọng. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Đạo giáo Trung hoa du nhập vào nước ta khá sớm, ít nhất cũng trong thời Bắc thuộc”.

 

Tín ngưỡng thờ Mẫu, Thánh Mẫu, Tam Tứ phủ, đều chỉ hình thức đề cao tính nữ, mang ước vọng giải thoát khỏi những ràng buộc, thành kiến của Nho giáo nặng nề, cổ hủ. Học giả Nguyễn Văn Huyên trong khảo luận Văn minh Việt Nam, khẳng định, từ xưa, người cha, người chồng trong gia đình có uy quyền gần như tuyệt đối. Vậy theo ông Nguyễn Văn Huyên, người ta hiểu rằng không có hình thức mẫu hệ nào ở Việt Nam.

Nếu thế thì Đạo thờ Mẫu có từ bao giờ?

Cũng học giả Nguyễn Văn Huyên, không nhắc đến Đạo Mẫu, mà chỉ nói đến Đạo Lão, xuất phát từ Trung hoa, với ông tổ là Lão Tử, và 2 môn đồ nổi danh là Trang Tử và Liệt tử, thế kỷ thứ 5, 6, TCN.

Vị thần tối cao của Đạo Lão là Ngọc Hoàng, với hai Thượng thư là Nam Tào, ở bên trái, giữ sổ sinh; Bắc Đẩu ở bên phải, giữ sổ tử. Ngọc Hoàng ngự trị 36 điện trên trời, 72 tầng dưới đất. Là chúa tể của mặt trời, mặt trăng, các vì sao, gió mây, sấm, sét, mưa. Thần và ma của núi, rừng, sông, biển, người dưới đất, chim trên không, cá dưới biển đều là thần dân của Ngọc Hoàng.

Ông cho biết 2 ngôi đền của Đạo Lão nổi tiếng nhất là đền Trấn Vũ hay Quán Thánh, thờ thần Huyền Vũ; và đền Ngọc Sơn thờ thần Văn Xương. Nhưng lại không nói gì đến ngôi đền thờ Mẫu cổ nhất Việt Nam là Đền Bà Kiệu và không hề nhắc đến Phủ Tây Hồ.

Ông (NVH) nói đến Đạo Mẫu như sau:

“Một trong các biểu hiện sinh động nhất và dân gian nhất của Đạo Lão là việc thờ chư vị, tức thờ các thần linh nữ và nam ở ba thế giới – tam phủ, thiên phủ, địa phủ, và thủy phủ. Các vị thần, Thánh mẫu, chiếm ở đấy vai trò trội hơn hẳn các đức ông.

Trong các Thánh mẫu, người được biết đến nhất là Liễu Hạnh. Đền thờ bà có ở khắp Bắc kỳ, đến tận Nghệ An. Đạo Lão cũng gắn với việc thờ Trần Hưng Đạo và các tướng của ông, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng…”

(La Civilisation annamite, Nguyễn Văn Huyên _ Văn minh Việt Nam, Đỗ Trọng Quang dịch)

Như thế, Học giả Nguyễn Văn Huyên, không nói đến Đạo Mẫu mà chỉ có Đạo Lão. Và Đạo Lão ở Việt Nam có một biểu hiện sinh động là thờ các Thánh Mẫu. Tức là ông thừa nhận tuy tín ngưỡng thờ Mẫu xuất phát từ Đạo Lão, nhưng đó là đặc thù của Việt Nam.

Chế độ mẫu hệ ở Việt Nam không rõ rệt, chỉ có ở người Chăm, một số dân tộc Tây nguyên. Nhưng các chế độ mẫu hệ ở các dân tộc này chỉ mang tính hình thức, chỉ là mẫu hệ trong gia đình (như con mang họ mẹ, người mẹ cai quản gia đình…), còn người cha mới có phụ quyền, giao tiếp với làng xóm, xã hội, với cộng đồng. Người Chăm có câu nói nổi tiếng về việc này: đàn ông đi chiến đấu, đàn bà sinh nở  ( Đổng Thành Danh, chế độ mẫu hệ, phụ quyền của người Chăm).

Ví như trong lịch sử có bà Âu Cơ được tôn làm quốc mẫu và khi Hai Bà Trưng nổi lên đánh quân Nam Hán thì có thể đó là dấu vết mờ nhạt của một hình thức nữ quyền. Nhưng để tín ngưỡng thờ Mẫu trở thành một tôn giáo thì chỉ từ thời Lê, với Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Trong hệ thống Tứ Phủ của Đạo Mẫu còn có Bà Chúa Thượng Ngàn. Thượng Ngàn, khiến ta hình dung đây là Bà Chúa miền sơn cước, của người miền núi, của các dân tộc Mường, Thái v.v…. (chuyện bà Âu Cơ dẫn 50 con lên núi, biết đâu trong 50 người con ấy, có đôi ba người là người Mường, người Thái. Nhiều tài liệu dân tộc cũng cho là người Mường, người Thái có nhiều nét giống người Việt). Có thể đó là sự dung nạp giữa các khái niệm thờ thần nữ, mang tính nữ của người Việt với nhiều sắc tộc miền thượng du.

Thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, phong trào đòi quyền bình đẳng cho nữ giới khởi đi từ Hoa kỳ, rồi lan ra khắp châu Âu. Nhưng ngay từ thế kỷ 15, với bộ luật Hồng Đức, nhà Lê đã bắt đầu nhìn nhận vai trò của nữ giới.

Tây phương cho đó là sự nổi loạn. Nhưng đó lại là trật tự bình thường của người Việt. Người nữ mang chức năng sinh nở, lưu truyền nòi giống, gìn giữ bếp lửa, nơi thiêng liêng nhất trong mọi gia đình. Các anh tây, rợ Hung nô, đội quân Mông cổ, đi càn quét thế giới, đi chinh phục các dân tộc khác… Rồi được gì? Chỉ là bóng mây qua.

Nền văn minh là dòng chảy giữa đôi bờ. Dòng chảy đôi khi tràn ngập những người, trộm cướp, la hét và làm những điều mà các sử gia ghi chép lại, còn trên bờ, không ai chú ý, con người vẫn dựng tổ ấm, yêu thương nhau, nuôi dưỡng con cái, ca hát, làm thơ và cả dựng tượng nữa. Câu chuyện của nền văn minh là câu chuyện của những điều xảy ra trên bờ. Sử gia là những kẻ bi quan bởi họ đã bỏ qua đôi bờ của dòng sông.

(Will Durant)

Thế đó. Con người chỉ thích chú ý đến dòng sông, đến hỗn loạn, đến chiến tranh, xung đột. Không ai chú ý đến hai bờ, nơi con người ca hát, yêu thương, dựng tượng…và, thờ Mẫu.

Và đó là cách mà người Việt phản kháng, nổi loạn.

Đạo Mẫu, có thể nói, là một tôn giáo độc quyền của người Việt. Mọi tôn giáo khác trên đất Việt, từ xưa đến nay, đều là du nhập từ bên ngoài. Chỉ Đạo Mẫu là riêng của người Việt.

Năm 2016, tín ngưỡng thờ Mẫu của Việt Nam đã được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân loại.

Đã được thế giới công nhận bản quyền.

Từ xưa người Việt quan niệm Trời là Cha, đấng tối cao tạo ra mọi xoay vần trong vũ trụ. Đất là mẹ, thu nhận sinh lực từ vũ trụ sinh ra vạn vật, muôn loài. Từ Bà Mẹ vũ trụ thành Bà Mẹ xứ sở, Mẹ Âu Cơ. Phải chăng đó là nguồn gốc của Đạo Mẫu.

Lão tử, ông tổ của Đạo giáo giảng rằng: “Không”, là gọi cái bản thủy của trời đất; “Có” là gọi mẹ sinh ra muôn vật. Người Việt hiểu đơn giản hơn và giảng thiết thực hơn. Rằng: Trời cao, Đất dày. Trời ở tít trên cao, cao xa, huyền bí, quyền phép vô biên. (Ấy là ông Trời của Đạo Lão). Đất ở ngay trước mắt, mọi vật, muôn loài đều từ đất mà ra. (Ấy là Đạo Mẫu của Việt Nam)

Sự việc đạo Mẫu có phải chiụ ảnh hưởng từ Đạo giáo của Trung hoa hay không, xin nhường cho các nhà nghiên cứu. Ta chỉ biết tục thờ Mẫu thêm vào hệ thống của mình Tam Phủ, Tứ Phủ. Đạo giáo vốn là một triết lý cao xa, chẳng mấy ai hiểu, nhưng việc thờ phụng Tiên Thánh thần kỳ, bí hiểm lại rất được dân gian ưa chuộng. Nên dễ dàng thâm nhập vào tín ngưỡng người Việt, để thành Tam Tứ Phủ. Tam Phủ là Thiên Phủ, Địa Phủ, Thủy (hay Thoải) Phủ. Tứ Phủ là Tam Phủ cộng thêm Nhạc Phủ. Một cách giảng khác lại cho rằng tục thờ Tam Phủ giao thoa với tục thờ Sơn Trang của các dân tộc miền núi phía bắc (là Mẫu Thượng Ngàn) hình thành Tứ Phủ (ở đây, lại thấp thoáng hình bóng bà mẹ Âu Cơ).

Đến thế kỷ 16, khi Nho giáo trở nên độc tôn, chi phối tâm thức người Việt, thì dân gian đã tìm thấy một cách giải thoát là phát sinh ra huyền tích công chúa Liễu Hạnh làng Vân Cát (huyện Vụ Bản, Nam Định). Từ đó bà là Thánh Mẫu cai quản cõi trần gian (thay cho ông Khổng Tử dành cho mấy nhà nho).

Tính cách đa thần trong đạo Mẫu thể hiện qua các đấng thần linh thờ phụng. Có đến hơn 50 vị thần được thờ trong các đền thờ Mẫu (một số vị của Đạo giáo như Ngọc Hoàng, Nam tào, Bắc đẩu; của Phật giáo như Quan Âm bồ tát, các anh hùng dân tộc như Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, các chúa Mường như chúa Nguyệt hồ, chúa Lâm Thao…). Đương nhiên, cao nhất vẫn là Thánh Mẫu. Còn được thể hiện qua Phật Quán thế âm nghìn mắt nghìn tay. Cho nên, trong nhiều đình chùa ở Việt Nam, ngoài thờ Phật, thần, còn có gian thờ Mẫu (như đền Bạch Mã, Hà Nội có bàn thờ Mẫu ở Hậu cung hay chùa Phổ Minh ở Nam Định cũng có bàn thờ Mẫu). Nhưng việc thờ Mẫu trong các đền, chùa khó xác định có từ bao giờ.

Đạo Mẫu còn có một hình thức diễn xướng tâm linh qua âm nhạc. Đó là hầu đồng hay hát chầu văn. Đó là cách giao tiếp với thần linh qua những khúc hát, điệu múa mà các nhà nghiên cứu cho là dân ca cổ của người Việt. Nhiều thần linh chính là nhân thần, là anh hùng dân tộc. Qua cách hầu đồng, hát văn, người dân thể hiện sự tôn thờ của mình với những đấng anh linh mà họ kính trọng.

Nếu để ý, ta sẽ thấy dàn nhạc trong các buổi hầu đồng gần như hội tụ đủ các nhạc cụ trong nền âm nhạc Việt Nam:

Có đến 12 nhạc cụ trong một buổi hát Hầu Thánh: đàn nguyệt, trống ban, phách, tiu cảnh, thanh la, trống cái, sáo (flute), đàn tranh, đàn nhị, kèn bầu, mõ và đàn bầu (theo Nguyễn Xuân Sang, Mother Goddesses in Vietnam: Worship the Role of Mothers | Greenville University Papyrus)

Phách, Media by Hồn Quê. Mother Goddesses in Vietnam: Worship the Role of Mothers | Greenville University Papyrus

Đàn nguyệt. Media by Hồn Quê.  Mother Goddesses in Vietnam: Worship the Role of Mothers | Greenville University Papyrus

Đàn bầu. Media by Hồn Quê. Mother Goddesses in Vietnam: Worship the Role of Mothers | Greenville University Papyrus

 

Ngấm ngầm trong mạch chảy của hồn dân tộc, người Mẹ hiển hiện qua các câu ngạn ngữ, ca dao:

Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ

Con dại, Cái mang

Cha sinh không tày Mẹ dưỡng

Mồ côi Cha ăn cơm với cá, mồ côi Mẹ liếm lá đầu đường

Phúc đức tại Mẫu

Các đền thờ thần nữ, tiên nữ nhiều vô số trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Nên đạo Mẫu xuất hiện chỉ là chuyện hiển nhiên. Không sớm thì muộn, thế thôi.

 

 

 

 

Dưới đây là trích đoạn bài Hát Văn Gía Chầu:

Rong chơi quán Sở Tần lầu
Loan giá lên chầu thưọng đế vua cha
Đền thờ Cô vô số hằng hà
Ban tài tiếp lộc gần xa cho đồng)


Đứng trên ngàn rừng xanh ngan ngát
Thấy cô về ngỡ Phật quan âm
Tay đàn miệng hát ca ngâm
Điểm đa điểm đót tiếng trầm nhặt khoan

Non xanh nước biếc suối vàng
Đông cuông cảnh ấy lại càng lâng lâng
có phen cô dạy ngưòi rừng
nói ra trăm tiếng giống chung ngôn từ
Cô theo hầu Diệu tín thiền sư
Anh linh nổi tiếng Đông Cuông Từ Sơn Lâm
Ngự sơn lâm đông cuông tuần quán
Cô Đôi ngàn vạn phép anh linh
Tiên Cô biến hoá hiện hình
Cung thỉnh các bộ sơn tinh ngự về

 

Chữ biển đề Đại vương Lê Mại
Phép Khuông phù quốc thái dân an
Thỉnh cô chứng giám đàn tràng
Độ cho đồng tử an khang đời đời

 

HÌNH ẢNH ĐỀN BÀ KIỆU

So với ảnh chụp năm 1896, hiện trạng của đền Bà Kiệu ngày nay gần như chỉ là ngôi đền nhỏ. Hồi ấy, đền trông thâm nghiêm, rộng rãi, xứng đáng với vị thế của vị thánh Mẫu, địa vị cao nhất trong thế giới tâm linh của người Việt. Bị cắt mất sân và khu vực tiền tế, đền chỉ còn như ngôi miếu nhỏ.

Cổng tam quan bên bờ hồ (chính từ hình ảnh chụp ngẫu nhiên này, khi đi tham quan phố cổ Hà Nội, trên xe điện, chiều ngày 1.3.2023, mới biết đến đền Bà Kiệu và từ đó, là Đạo Mẫu Việt Nam)

Nhà đại bái bên Đường Tiên Hoàng

(Chùm ảnh: Đền Bà Kiệu - ngôi đền cổ bị 'cắt đôi' của Hà Nội - Redsvn.net)

Thiên Tiên Điện, tên chữ đền Bà Kiệu

(Đền Bà Kiệu - Ngôi đền nằm giữa phố đi bộ hồ Gươm (afamily.vn)

Bộ mái gần gũi với phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Bờ nóc có dạng bờ đình, bên trên gắn hình cá hoá rồng bằng gốm men xanh đang nhìn vào bình nước thiêng ở giữa.

Trong nhà đại bái có bộ khung được làm khá vững chắc với 8 cột trụ bằng gỗ lim, chu vi cột cái 115cm, cột quân 105cm. Các cột hiên nhỏ hơn được làm bằng đá trắng, hình hộp chữ nhật mỗi cạnh rộng 25cm.

Đền Bà Kiệu là nơi thờ ba vị nữ thần: Liễu Hạnh Công chúa, Quỳnh Hoa và Quế Nương, trong đó công chúa Liễu Hạnh là một trong “tứ bất tử” trong tâm thức tín ngưỡng của dân gian. Tượng các nữ thần đặt trong một khám thờ lớn ở giữa hậu cung, chạm khắc cầu kỳ.

Hai gian bên của hậu cung là nơi thờ những vị nam thần phổ biến trong các đền Mẫu như Ngọc Hoàng và Ngũ vị Tôn ông.

Các khám, long ngai, hương án, án văn, câu đối, hoành phi… trong đền Bà Kiệu đều có chạm trổ tỉ mỉ với những hình rồng, hoa dây, chim phượng… mang phong cách thế kỷ 19. Những đồ thờ này được sơn son thếp vàng lộng lẫy.

(Chùm ảnh: Đền Bà Kiệu - ngôi đền cổ bị 'cắt đôi' của Hà Nội - Redsvn.net)

 

 

 

 SG. 2023

NTH

 

 


Đăng nhập để gửi phản hồi cho bài viết