NAM KỲ LỤC TỈNH

NAM KỲ LỤC TỈNH

 

Ban đầu gọi là Đồng Nai, hay có khi gọi là Giản Phố, Giản Phố trại (nghe như trại của Lương Sơn bạc) thời các chúa Nguyễn (Đàng Trong) rồi là Gia Định thời Gia Long, đổi sang Lục tỉnh thời Minh Mạng, nên có khi còn gọi là Lục châu. Thời Pháp thuộc gọi là Nam kỳ. Thế rồi cách gọi Nam kỳ Lục tỉnh trở nên quen thuộc, vì có hẳn một tờ báo tên là Lục tỉnh tân văn kia mà.

Nam kỳ chia thành Lục tỉnh từ 1835, gồm: Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.

Vào thời điểm Minh Mạng cho lập xong địa bạ (1836), toàn Lục tỉnh có 1737 làng.

Bản đồ hành chánh Nam bộ, 1836

(Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, Nguyễn Đình Đầu)

Bản đồ hành chánh thời Pháp (Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, Nguyễn Đình Đầu)

 

Nguồn gốc tên Gia Định, theo tác giả Choi Byung Wook_ “Vùng đất Nam bộ dưới triều Minh Mạng”:
Gia < Ya (hay ayer) : nước, sông , suối.

Định < dinging (hay hering): mát, lành.

Đó là tên địa phương gốc Mã lai.

(Theo bảng Từ nguyên nhân loại của 2 tác giả Bengtson và Ruhlen, trong số 27 từ nguyên mà ông tổ loài người sáng tạo ra thì “Aq’wa” là Nước. Ta thấy “Ya” _ theo tiếng Mã Lai do tác giả Choi Byung Wook ghi nhận_ còn giữ được gốc của từ nguyên).

 

Tác giả Léopold Pallu, trong tập Hồi ký “Lịch sử cuộc viễn chinh Nam kỳ 1861”, người trực tiếp tham gia cuộc viễn chinh này, có ghi chép một vài nhận xét về người dân Nam kỳ thuở ấy, như sau:

Đất Nam kỳ phì nhiêu, người dân dễ dàng sở hữu mảnh ruộng của mình. Triều đình Huế cho dân vay tiền và ưu đãi việc làm ruộng. Vì đời sống người dân dễ chịu nên họ không di cư đi nơi khác. Bản tính họ lại quyến luyến quê hương.

Trái  với lời đồn đãi bọn cướp ở châu Á thường ăn gan uống máu khiến ta tưởng đây là đất nước vô nhân đạo, thật ra người An Nam rất sợ cảnh máu chảy đầu rơi. Ở châu Âu, cướp bóc đi đôi với giết người, nhưng bọn cướp An Nam chỉ lột sạch nạn nhân chứ không giết. Trước 1859, (tức trước khi Pháp đánh Nam kỳ), mỗi năm chưa có quá 3 vụ cướp.

 

Người An Nam chấp nhận phút khổ hình cuối cùng với một thái độ giản dị, trầm tĩnh, đáng kính nể: không một cử chỉ nào, không một lời nói nào cho thấy sự thất vọng, sợ hãi, hay hèn nhát.

Ta ghi nhận đôi điều trong các nhận xét trên:

Thứ nhất, đất đai miền Nam rất trù phú, người dân sống khá dễ dàng (nhưng hơn trăm năm trước, khi Nguyễn Hữu Cảnh (1698) hay Nguyễn Cư Trinh (1756) vào miền nam, đây còn là hoang địa, khí hậu ẩm thấp, phần nhiều là bùn sình, chỉ có bần đước. Không thể là trù phú được. Công lao ông cha ta lớn biết bao).

Thứ đến, người dân rất sợ cảnh máu đổ, đầu rơi. Nếu có chuyện cướp bóc, chỉ là lấy đồ, không hại đến sinh mạng.

Thứ ba, thái độ trầm tĩnh trước khổ hình cho thấy nhân sinh quan của họ: không sợ hãi, không hèn nhát.

Một ngôi làng ở Nam kỳ, 1863

Cảnh ven sông Sài Gòn, 1860

 

 

Nói đến vùng đất Nam bộ là phải nói đến Đồ Chiểu với truyện thơ Lục Vân Tiên và những câu thơ bất hủ của ông:

Nhớ câu kiến ngãi bất vi,

Làm người dường ấy cũng phi anh hùng.

Và:

Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái, ta là phận trai.

 

Còn trong tập Hồi ký, học giả Nguyễn Hiến Lê cho ta biết đôi điều về người miền Nam:

Các nhà Nho đó rất nghiêm khắc trong việc dạy con, rất trọng cổ tục, được dân làng kính nể. Và tôi cho rằng sinh lực miền Nam này dào dạt ở thôn quê, trên bờ những con rạch mát rượi bóng dừa, trên những cánh đồng bát ngát bông sen và bông súng, trong những căn nhà sàn vách ván này, chứ không phải trong thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn, trên đường Catinat hay Tổng đốc Phương.

Và, trong tập du ký Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười, ông cho biết thêm về các bà già miền Nam:

Non 20 năm sống trên đất Đồng Nai này, tới đâu tôi cũng được tiếp đón một cách chân thành và thân mật...

Tôi nhớ hoài một bà cụ rất nghiêm khắc mà rất nhân từ, đã giúp tôi trong lúc tản cư được yên ổn  học hỏi và viết sách. Cụ rất ít nói nhưng có những cử chỉ cảm động vô cùng. Một hôm gần Tết, cụ bảo tôi: “Tôi biết thầy có học Nho, không quên tổ tiên, nên bảo trẻ mua đồ cúng, thầy dọn bàn này đi mà cúng ông bà”. Tôi muốn rưng rưng nước mắt. Hương hồn cụ lúc nầy chắc tiêu diêu ở cõi Phật.

Một thi nhân vịnh Nam Việt có câu:

“Tối khả hoài nhân duy lão mỗ”

Lời ấy thật đúng! Không ai quên được tấm lòng rộng rãi, thương người của các bà già miền Nam. Những bà cụ ấy, đều chất phác, không biết sử kí và địa lí nước Việt, mà đối với tôi – một người phương xa mới tới – thân mật như trong nhà, làm cho tôi nghĩ tới “đầu óc địa phương” của một số bạn “có học thức” của tôi mà xấu hổ thay cho họ! Họ mạt sát hết thảy những cái gì không phải ở trong cái xứ họ mà ra...

Tối khả hoài nhân duy lão mỗ.

 

Ngoài chàng Lục Vân Tiên, văn khởi phụng đằng dao, võ sáu thao ba lược; những bà già miền Nam, tối khả hoài nhân duy lão mỗ, miền Nam còn những ai ?

Là những con người bình thường và vô danh, những người không hề được lịch sử ghi nhận, làm ruộng, chài lưới,  những người đã chỉ dẫn con nước lên, xuống cho vua Quang Trung để ông lập kế hoạch cho chiến dịch Rạch – Xoài Mút, trận thủy chiến lừng danh thời cận đại, 1785.

Là những dân phu, chiến sĩ đã góp công lớn đào kênh Vĩnh Tế, công trình thủy nông kỳ vĩ. Có thể là công trình lớn lao nhất của các vua nhà Nguyễn định hình cho những cánh đồng cò bay thẳng cánh về sau ở miền Nam. Kinh khởi đào dưới trào Gia Long, 1819. Hoàn thành 5 năm sau, 1824, trào Minh Mạng.

Lúc sanh khi lớn không tường

Là trai hay gái khó tường họ tên?

Hiền hoặc dữ, hư nên nào rõ,

Cha anh đâu, còn có cháu con?

...

Đào kinh trước mấy kì khó nhớ,

Khoác nhung y chống đỡ biên cương.

Bình man máu nhuộm chiến trường,

Bọc thây da ngựa gởi xương xứ nầy. 

(Tế nghĩa trủng văn)

 

Đã có nhiều sách báo nói về công lao khai phá của ông cha ta. Nhà văn Bình Nguyên Lộc, trong truyện ngắn Rừng Mắm, tóm tắt lại như sau:

“Ông với lại tía con là cây mắm, chơn giẫm trong bùn. Ðời con là đời tràm, chơn vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau.

Ðời mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là con cháu họ hưởng.”

 

Đó là thế hệ đầu tiên đi khai hoang vùng đất mới.

Họ làm rất nhiều và hưởng rất ít. Vì công lao của họ là dành cho các thế hệ sau.

 

CÓ LẼ QUYỂN SÁCH XƯA NHẤT NÓI VỀ ĐẤT Gia Định xưa mà ta còn biết được là cuốn Chân Lạp Phong Thổ ký của Châu Đạt Quan. Tác giả là người Trung Quốc đời nhà Nguyên, theo chân một phái đoàn ngoại giao Trung Hoa sang Chân Lạp, đến tận thủ đô Ăng-co. Dùng thuyền đi từ biển vào, ngược sông Cửu Long, qua Mỹ Tho, ngang Đồng Tháp Mười, tác giả nhìn lên bờ chỉ thấy “những bụi mây dài, cây to, cát vàng, lau sậy trắng”. Ở mục Núi sông, tác giả ghi lại những chòm cây rậm rạp của khu rừng thấp (rừng Sác), cửa sông quá rộng, cây to và mây dài, tạo bóng mát và chỗ trú cho chim chóc và muông thú, tiếng kêu tiếng hót vang dội. Vào được nửa đường sông, lần đầu tiên tác giả thấy được một cánh đồng lúa bạt ngàn, không một gốc cây to. Trâu rừng hàng ngàn con, họp từng bầy trên đồng cỏ. Dọc bờ sông là rừng tre gai, măng tre có vị đắng.

 

Châu Đạt Quan, cuối thế kỷ 13, đầu thế kỷ 14, làm quan thời Thanh triều. Đến thăm Angkor khi vương quốc này sắp tàn lụn. Vùng đất miền Nam thuở ấy là hoang địa, chỉ có chim chóc, muông thú. Và đồng không bạt ngàn.

 

NGUYỄN CƯ TRINH, NGƯỜI DÀY CÔNG GẦY dựng đất Gia Định từ buổi đầu gọi nơi đây là “tán hà đái thấp, chiết liễu triêm nê”: sen tàn nơi ẩm thấp, khí hậu độc địa, nhánh thủy liễu (cây bần) gãy rơi xuống bùn.

Ông hiểu rõ vùng đất này không thuận lợi mấy cho người đi khẩn hoang, nhưng ông càng hiểu vì sao họ phải đến đây. Từ năm 1751, khi còn làm tuần phủ Quảng Ngãi, ông đã dâng sớ khuyên chúa Nguyễn nên nghĩ đến dân đã quá khổ: “Việc hại dân ngày nay thì cấp lính, nuôi voi, nộp án, ba việc ấy là trước hết, ngoài ra những chi phí quá lệ rất nhiều”.

Dân thì một cổ năm bảy tròng:

“Dân Quảng Ngãi chịu thống thuộc nhiều nơi, đã chịu lệnh các nha trường sai dư, lại chịu lệnh các nha trường điền tô, lại chịu lệnh các nha tái biệt nạp, lại chịu lệnh các nha sai viên vi tử, lại chịu lệnh các nha sai viên nguyên đầu, lại chịu lệnh bản phủ, lại chịu lệnh quan lại nha môn, lại chịu lệnh các sai nhân, lại chịu lệnh của người đi săn ngang dọc, há không phải mười con dê đến chín người chăn, nghèo khổ thất nghiệp rất là đáng thương”.

(Sơn Nam, Đất Gia Định xưa _ Đại Nam thực lục, tiền biên)

Có phải vì thế mà phát sinh câu vè, “Quảng Ngãi hay lo” ?

Trên đầu người dân không chỉ có năm bảy, mà đến hàng chục, mấy chục cái tròng: chín con dê mà đến mười người chăn.

Khổ đến cùng cực.

Quan lại thì chỉ trông vào bắt bớ tra hỏi mà lấy lộc, khiến của dân càng hao. Có rất nhiều dân “lậu”, người thì trốn thuế mà phải đi lang thang, người thì vì đói rét mà phải xiêu tán, nhưng chúa Nguyễn cứ ghi vào sổ bắt thu thuế tất cả, dân không chịu nổi.

 

Ai đã vào đất Đồng Nai - Gia Định?

Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn nói rõ họ Nguyễn chiêu mộ những người dân “có vật lực” ở xứ Quảng Nam, các phủ Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn đưa đi khẩn hoang.

Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức  chép các chúa Nguyễn chiêu mộ lưu dân từ châu Bố Chánh trở vô Nam đến ở khắp nơi.

Nhưng trước khi các chúa Nguyễn tổ chức chiêu mộ, dân đói khổ đã tự động, lẻ tẻ bỏ quê quán ở miền Trung vào Nam làm ăn đã nhiều, có điều là sống rải rác, ít có tổ chức và ít được bảo vệ.

Vậy ba nhóm người vào Nam thời chúa Nguyễn là những người “có vật lực” từ Quảng Nam đến Quy Nhơn; lưu dân do chúa chiêu mộ từ châu Bố Chánh (Quảng Bình ngày nay) trở vào; thứ ba là “dân xiêu tán đi biệt”.

 

Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh (tên thật là Kính) nhận chức kinh lược vào Nam để sắp xếp về hành chính.

Đặt ra phủ Gia Định, gồm hai huyện Phước Long (Biên Hòa, Bà Rịa sau này) và Tân Bình. Nên tên đất Gia Định ngày xưa gồm cả Nam Bộ, với trung tâm hành chính, quân sự là Bến Nghé - Sài Gòn.

Năm đó, đất đai đã mở rộng được nghìn dặm, dân số được 4 vạn hộ.

(Đại Nam thực lục, tiền biên)

Đám dân “nghèo khổ xiêu tán đi biệt” là thành phần đông đảo nhứt vào Đồng Nai - Gia Định, làm công cho những người “có vật lực”. Họ không phải là người tù, tội. Họ chỉ phạm tội trốn thuế sai.

Và sau nữa là những người phạm tội “lưu” bị đi đày .

(lưu ngoài nghĩa là trôi dạt, phiêu lưu, lưu lạc, còn có nghĩa là đi đày. Tội lưu là một trong 5 tội, ngũ hình, ngày xưa gồm: xuy, trượng, đồ, lưu, tử).

Ngoài ra còn có dân ngoại xứ như:

Người Hoa:

Đa số là đàn ông, con trai. Họ cưới hỏi người địa phương, làm ăn, trở thành người Minh Hương (họ tự nhận là con dân nhà Minh).

Chỉ trong một vài thế hệ, họ đã thành người Việt Nam, điển hình là trường hợp Mạc Thiên Tứ, con của Mạc Cửu. Mẹ Mạc Thiên Tứ (vợ Mạc Cửu) là người Việt, Mạc Thiên Tứ cũng cưới vợ Việt.

Phương Tây:

Các thương gia Anh, Hà Lan đã từng dò xét miền đất này. Số này không nhiều, không có ảnh hưởng đến đời sống người dân.

Cướp biển Mã lai, Nam dương quần đảo:

Người Xiêm thường lui tới rình rập nhất là phía Hà Tiên. Hẳn quân Xiêm nhân mượn cớ qua giúp Nguyễn Ánh, đã từng dòm ngó miền đất này.

Bọn cướp biển từ Mã Lai, từ Nam Trung Hoa đến Vịnh Thái Lan, dạt vào các hải đảo.

Số này cũng không có tác động gì cả.

Lưu dân, tìm đường sống nơi chân trời góc bể, nơi cô thôn dã lãnh, nơi thú dữ, cướp bóc luôn chực chờ, triều đình thì ở rất xa, chỉ có thể đặt niềm tin vào đấng linh thiêng, nên họ thường tìm đến chùa chiền, lấy đó làm điểm tựa để chiến đấu với thiên nhiên, với mọi bất trắc luôn vây quanh.

Thế nên nhiều nhà sư từ Huế, Bình Định, từ Quảng Đông xiêu dạt vào Nam, rất dễ tạo dựng được nếp chùa, cũng dễ dàng lan truyền đạo pháp. Và, gây dựng được những ngôi chùa có danh như chùa Giác Lâm, Ngọc Hoàng, chùa bà Thiên Hậu...và nhiều ngôi chùa khác khắp các tỉnh Nam bộ.

 

Nói chung người Việt đã đến xứ này trong hoàn cảnh bộn bề.

Mặc cho khó khăn, trở ngại, họ bám đất, tin vào sức mình, qua câu ca dao:

 “Ruộng đồng mặc sức chim bay, biển hồ lai láng cá bầy đua bơi”,

Câu ca cho thấy sự trù phú của miền đất mới.

hoặc “Ra đi gặp vịt cũng lùa. Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu”.

Thể hiện sự thích nghi với mọi hoàn cảnh.

Nhưng họ gặp gì ở vùng đất mới?

 

“Nhứt phá sơn lâm, nhì đâm Hà Bá”,

Phá sơn lâm là phá rừng, đốn củi, khai hoang.

Đâm Hà Bá là làm nghề chài lưới ở sông, biển.

Nghề cây củi xưa, đánh cá ngày nay tuy đem lợi tức nhanh chóng nhưng không bền bằng nghề ruộng.

Làm ruộng chắc ăn hơn, sau vài năm trúng mùa dễ tu bổ nhà cửa vườn tược, nhưng cần đến sự kiên nhẫn, nhứt là nơi mới khai phá, nhanh nhứt phải qua ba năm mới tạm ổn. (Vì vậy, ngày xưa bày lệ miễn thuế ba năm cho người mới khẩn hoang).

(Sơn Nam _ Đất Gia Định xưa)

Đi theo Nguyễn Hữu Cảnh ngoài lực lượng quân đội là chính, còn có dân chiêu mộ, theo ông đi tìm tương lai. Nhiều người trong số ấy là tầng lớp trên, quan lại, nho sinh, thầy đồ, thầy thuốc. Đa số họ định cư ở hai huyện mới lập là Tân Bình (sau là Sài Gòn) và Phước Long (sau là Biên Hòa). Về sau họ tự hào nhận mình là dân hai huyện.

Trong đoàn quân Nguyễn Hữu Cảnh chinh chiến ở miền Nam, nhiều người ở lại dọc đường đi, thêm vào số lưu dân ban đầu, một lực lượng được đào tạo khác, nâng tầm cho miền đất này.

Khi Pháp chiếm miền Bắc, phong trào Cần vương nổ ra. Bị đàn áp, hay thất bại, một số bị lưu đày hay chạy trốn vào Nam. Họ chính là các nhà nho mà học giả Nguyễn Hiến Lê nhắc đến với nhiều trìu mến trong một số hồi ký của ông.

 

Ngoài các đô thị cổ đều do người Hoa lập như Nông Nại đại phố, Mỹ Tho đại phố (lập năm 1679 do Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch), và Hà Tiên trấn (tên cũ là Long Hồ dinh), lập do Mạc Cửu từ 1671-1680, còn thì chỉ là những làng xóm nhỏ, mãi đến thời Minh Mạng, việc lập sổ địa bạ, mới lưu tên vào sổ sách.

Mỹ Tho, với hoạt động chính là thương mại và ruộng rẫy, nhưng tồn tại không lâu. Chỉ mươi năm sau ngày lập ra nó, phó tướng Hoàng Tiến làm phản, giết Dương Ngạn Địch. Và Mỹ Tho sớm lụi tàn. Nhưng với vị trí tốt và đất đai phì nhiêu, Mỹ Tho sẽ sớm trở thành vùng đất trù phú. Vì ruộng rẫy chính là cách làm giàu tuy chậm nhưng căn cơ. Chính ở đây đã sinh ra Bạch Công tử, Lê Công Phước tức George Phước, nổi danh về mức độ giàu có và ăn chơi, cùng với Hắc Công tử ở Bạc Liêu.

Nông Nại nhờ hoạt động thương mại là chính, lại gần cảng biển Cần Giờ, nên sôi nổi trong thời gian dài hơn, gần 90 năm.

Bị Tây sơn cướp phá, rồi suy tàn, dân ở đây dời về Chợ Lớn, khiến Nông Nại chỉ còn là vàng son một thuở. Nhưng nhà văn Sơn Nam cho rằng, chính việc khai thác quá mức sản vật địa phương, mà không tài bồi, mới là lý do chính khiến cho Cù lao Phố chóng tàn lụi.

 

ĐỊA BẠ TRIỀU NGUYỄN

Bộ địa bạ khổng lồ này thực hiện từ 1805 (đời Gia Long) đến 1836 (Minh Mạng), có khoảng 18.000 quyển cho 18.000 xã thôn cả nước. Hiện chỉ còn 16.000 quyển. Đây là loại sổ mô tả và ghi nhận quyền sở hữu trên từng mảnh ruộng đất.

Nhà sử học lão thành Nguyễn Đình Đầu đã dày công nghiên cứu bộ địa bạ này và đã công bố từ 1993.

Qua nghiên cứu địa bạ, đã có thể đính chính nhiều sai lầm của một số học giả rằng tầng lớp quan lại và tổng lý là giới chiếm hữu ruộng đất nhiều nhất.

Thống kê cho thấy chỉ riêng ở huyện Bình Dương, nay là TP Hồ Chí Minh, có 368 quan lại và tổng lý thì có đến 282 người (74%) không có đất cắm dùi. Trong khi đó số phú nông rất đông đúc, nhiều người có hàng trăm mẫu ruộng, một số đại điền chủ có hàng ngàn mẫu.

Địa bạ cũng cho thấy nam nữ bình quyền trên quyền sở hữu ruộng đất: khi cha mẹ chia sản nghiệp cho con, luôn chia đều cả nam và nữ. Trung bình, phụ nữ sở hữu khoảng 20%-30% tư điền tư thổ. Một con số rất cao đối với cả thế giới vào thời đó, thời trọng nam khinh nữ.

Nhìn chung, tỉ lệ sở hữu ruộng đất rất cách biệt, người chỉ có 1, 2 thước đất, trong khi nhiều người có hàng trăm, hàng ngàn mẫu ruộng.

Sổ địa bạ nhằm mục đích thực hiện chế độ công điền, san bằng phần nào sự cách biệt đó.

Dẫn chứng từ địa bạ cho thấy đạo lý và truyền thống Việt Nam được pháp chế hóa, cụ thể hóa, cho thấy tình yêu quê hương đất nước, hiếu thảo trong gia đình, thương yêu đồng bào ruột thịt.

(Trích lời giới thiệu của GS Trần Văn Giàu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, Tỉnh Vĩnh Long, 1993)

Những nhận định này trùng hợp với nhận xét của viên sĩ quan Pháp, Léopold Pallu, từng trực tiếp tham gia cuộc xâm lược Nam kỳ năm 1861:

Ðất Nam Kỳ miền dưới phì nhiêu, người dân có nhiều phương tiện để trở nên sở hữu chủ mảnh ruộng của mình, dân làng cho nhau mượn trâu để làm việc, triều đình Huế cho vay tiền và ưu đãi canh nông trên hết; tất cả các điều vừa kể giúp người dân An Nam sinh sống dễ dàng và không nghĩ đến việc vượt biển mà di cư đi nơi khác. Nền giáo dục của họ cũng không khuyến khích họ bỏ xứ, chưa kể họ đã có sẵn bản chất quyến luyến đất đai của họ. Luật pháp quốc gia cấm việc vượt biên, và người An Nam thì rất tôn trọng luật pháp.

(Lịch sử cuộc viễn chinh Nam kỳ)

Những gì triều đình nhà Nguyễn làm được, có lẽ phần nào đã bị đánh giá sai lầm, nếu không có những nghiên cứu công phu như của học giả Nguyễn Đình Đầu.

 

 

 

 

SỰ KIỆN VÀ NHÂN VẬT

 

Lê Văn Duyệt là vị Tổng trấn thứ hai của Gia Định thành, ông tại vị đến khi qua đời (1820-1832).

Biến loạn Lê Văn Khôi (1833-35), khiến Minh Mạng triệt hạ thành Gia Định, kết án trảm giam hậu với Lê Văn Duyệt. Nhưng với người dân địa phương, cả lương lẫn giáo, là Việt, Hoa, Miên hay Tây phương, đều rất kính trọng ông.

Nhà sưu khảo Huỳnh Minh, trong tập Định Tường, xưa và nay, cho biết các bô lão ở Long Hưng, Mỹ Tho (Định Tường xưa), có kể rằng, mộ Lê văn Duyệt ở Gia Định chỉ là mộ tượng trưng. Lăng mộ của ông ở Long Hưng mới là mộ thật.

Chuyện này thực hư khó biết.

Ông rất nghiêm minh, đến mức cứng rắn, nhưng rất trọng lễ giáo. Học giả Trương Vĩnh Ký có kể vài chuyện về ông trong tập Ký ức lịch sử về Sài Gòn và các vùng phụ cận:

Một hôm Đức Thượng Công đi Chợ Lớn, tới Cầu Kho, Ngài thấy một đứa bé khoảng bốn năm tuổi chửi cha mẹ nó. Ngài tạm ra lệnh bắt nó, nhưng lại đổi ý và tiếp tục đi. Buổi chiều khi trở về, Ngài còn nghe thấy nó chửi mắng cha mẹ nó đang lúc bữa ăn. Ngài dừng lại bắt nó đi theo. Đức Thượng Công ra lệnh cho đứa bé ăn cơm, nhưng đã mật lệnh phải tráo ngược đầu đũa. Thằng nhỏ sắp xuôi đôi đũa rồi mới ăn. Ngài liền truyền chém đầu nó vì cho rằng nó đã có đủ trí khôn để hiểu tội nó phạm là nặng nề.

Lần khác, Ngài ra phố bắt gặp một tên ăn trộm cuộn giấy hút thuốc và bỏ chạy. Ngài liền ra lệnh chém đầu tại chỗ không cần xét xử .

Một viên thơ lại, khi ra khỏi sở đã gặp một bà bán cháo ở cổng thành. Vì muốn trêu ghẹo, ông đưa tay lên với cái hộp trầu mà bà bán cháo để trên nắp thúng. Bà bán cháo hô hoán lên là có trộm. Viên thơ lại bị bắt quả tang và bị chém đầu mà không được xét xử tại quan đường.

Hằng năm, vua nước Cao Miên phải sang Sài Gòn vào dịp Tết Nguyên Đán để làm lễ thần phục hoàng đế Việt Nam ở miếu hoàng triều cùng với quan Tổng Trấn. Vua Cao Miên tới vào ngày 30 Tết, nhưng thay vì đến Sài Gòn, lại ngủ đêm ở Chợ Lớn. Sang canh năm, quan Tổng Trấn tới dự lễ trong tiếng nhạc mà không thấy vua Miên. Sau buổi lễ, vua Cao Miên mới tới. Đức Thượng Công phạt vua chư hầu ba ngàn quan tiền. Nộp đủ mới cho về nước.

Thời Lê Văn Duyệt là Tổng trấn Gia Định, khá nhiều khách thương, khách du lịch, phái bộ ngoại giao, như Mỹ, Anh, Bồ đào nha, Hà lan, ghé đến nhằm đặt vấn đề giao thương, buôn bán. Nhưng ông không có quyền quyết định nên họ phải ngược ra Huế xin phép triều đình. Chính sách bế quan tỏa cảng dưới triều Minh Mạng nghiêm cấm nên đất nước đã bị tụt hậu.

 

ĐÀO KÊNH VĨNH TẾ

Kênh Vĩnh Tế chảy qua địa phận tỉnh An Giang và Kiên Giang. Đồ họa: Khánh Hoàng _ (Đào kênh Vĩnh Tế - tầm nhìn vượt thời đại của tiền nhân' - Báo VnExpress)

 

Theo  Quốc triều chánh biên toát yếu , thì vào năm Minh Mạng thứ ba (1822) tháng 10, nhà vua đã dụ rằng:

“Đường sông Vĩnh Tế  liền với tân cương, xe thuyền qua lại đều là tiện lợi, Đức Hoàng Khảo Thế Tổ Cao Hoàng Đế ta mưu sâu, tính xa, chú ý việc ngoài biên. Công việc đào kinh mới bắt đầu chưa xong. Nay ta theo chí tiên hoàng, cố nghĩ cách khó nhọc một lần mà được thong thả lâu dài về sau”.

Đoạn vua Minh Mạng ra lệnh cho Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt bắt binh dân Miên, Việt chừng 55.000 người, chia làm 3 phiên để hoạt động.

Để cho con kinh được ngay thẳng, người ta đợi lúc ban đêm, rẽ sậy rạch hoang, dốt đuốc trên đầu những cây sào cao rồi nhắm theo đường thẳng mà cặm. Muốn điều khiển những cây “sào lửa” ấy cho thật ngay hàng, người ta cầm một cây rọi to, đứng trên cao phất qua phất lại ra hiệu cho người cầm sào tìm đúng vị trí. 

Sau đó, Thoại Ngọc hầu còn huy động thêm nhân công đào kinh, tổng số lên đến trên 80 ngàn người. Thời gian công tác dai dẳng 5 năm trường, từ tháng chạp 1819 cho tới tháng 5 năm Thân 1824 mới hoàn tất.                     

Việc đào xong kinh Châu Đốc – Hà Tiên đã được thừa nhận xem là một thành quả to tát. Dân chúng mừng vì lợi việc thông thương. Giới chức biên phòng nhẹ bớt gánh  nặng nhờ có đường nước án ngữ. Riêng vua Minh Mạng thì lấy làm mãn nguyện vì nối được chí cha và đã đạt được một quốc sách. “Từ ấy đường sông lưu thông, từ kế hoạch trong nước, phòng giữ ngoài biên, cho tới dân buôn bán, đều được tiện lợi vô cùng”. Đó là lời nhận xét của Đại Nam nhất thống chí, ghi chép trước đây gần trăm năm.

(Nguyễn Văn Hầu_Thoại Ngọc Hầu và công cuộc khai phá miền Hậu Giang)

 

 

NÔNG NẠI ĐẠI PHỐ (CÙ LAO PHỐ) VÀ MỸ THO ĐẠI PHỐ

 

Năm 1679, di thần nhà Minh là Dương ngạn Địch và Trần thượng Xuyên chạy sang xin thần phục chúa Nguyễn (Phúc Tần). Nghi ngại nhưng không tiện từ chối, chúa đi một nước cờ khôn ngoan là cho đưa họ vào khai khẩn đất Đồng Nai.

Binh thuyền của Ngạn Địch và Hoàng Tiến vào cửa Soài Rạp đến đóng ở Mỹ Tho; binh thuyền của Thượng Xuyên và An Bình thì vào cửa Cần Giờ, đến đóng ở Bàn Lân (Biên Hoà)...

 

NÔNG NẠI ĐẠI PHỐ

Cầu Mát trước Dinh Tham Biện, xưa gọi là cầu Quan. Địa điểm hiện nay là Nhà thiếu nhi tỉnh Đồng Nai. Hoài nhớ một thuở Nông Nại đại phố ngày xưa.

(Lịch sử hình thành và hình ảnh ngày xưa của vùng đất Biên Hòa)

Bên phải hình là Cù lao Phố

(Lịch sử hình thành và hình ảnh ngày xưa của vùng đất Biên Hòa)

 

Đình Tân Lân xưa, nơi thờ Trần Thượng Xuyên

Thất phủ cổ miếu, nay là Chùa Ông, ngôi miếu xưa nhất của người Hoa ở Nam bộ, xây dựng năm 1684

 


Nông Nại đại phố là phố lớn của xứ Đồng Nai, Đồng Nai âm theo tiếng Quảng Đông, viết Nông Nại.

Những gì Trịnh Hoài Đức ghi chép về cù lao Phố là tư liệu đáng tin cậy nhất. Họ Trịnh ghi lại:  “Trần Thượng Xuyên, tức Trần Thắng Tài chiêu tập người buôn nước Tàu đến kiến thiết phố xá mái ngói tường vôi, lầu cao, quán rộng, dọc theo bờ sông liên lạc dài 5 dặm, chia và vạch làm 3 đường phố, đường phố lớn lót đá trắng, đường phố ngang lót đá ong, đường phố nhỏ lót gạch xanh, đường rộng bằng phẳng, kẻ buôn tụ tập, ghe thuyền lớn ở biển và ở sông đến đậu, có những xà-lan (người dịch lại, hiểu là kiểu bè chở hàng hóa), ấy là một chỗ đại đô hội, những nhà buôn bán to duy ở đây là nhiều hơn”.

(Mục “Thành tri chí”).

 

Cù lao Phố trở thành một cảng quan trọng đầu tiên của Nam bộ, đón nhận thương thuyền nước ngoài, hưng thịnh suốt khoảng 90 năm từ khi Trần Thắng Tài đến với quân đội, suy thoái từ khoảng 1775, tức là khoảng sau 90 năm, để nhường cho Sài Gòn (Tân Bình).

Trịnh Hoài Đức mô tả vị trí khá cụ thể, dài 5 dặm, hơn 2km, đại khái từ miếu Quan Công nay hãy còn ăn về phía bắc.

Chỉ khai thác sản vật địa phương mà không sản xuất gì (lâm sản như gốm, ngà voi, sừng tê...) nên chỉ phồn thịnh chưa tới trăm năm.

Quân Tây sơn cướp phá không hẳn là nguyên nhân chính khiến Nông Nại không còn là “đại phố” mà chỉ còn là “phố xưa”. (Đại Nam thống nhất chí ghi rõ quân Tây Sơn đến “dỡ lấy hết nhà cửa, gạch đá của cải chở về Quy Nhơn, từ đời Gia Long trung hưng tuy người ta có trở về, nhưng trăm phần chưa được một”.)

Thấy không còn khai thác được gì nên dân Nông Nại mới tìm về Gia Định, nơi có nguồn hàng lúa gạo rất dồi dào.

Và Chợ Lớn dần thay thế vai trò của Cù lao phố từ dạo ấy.

Người Pháp đến (1863) khi cù lao Phố đã trở thành xóm làng bình thường, không còn dấu ấn gì về thời oanh liệt đã qua.

Nông Nại, Mỹ Tho và Hà Tiên, loé lên như ánh que diêm. Sáng bừng rồi lụi tàn chỉ trong thời gian ngắn ngủi. Không bao giờ trở lại như xưa.

Mạc Cửu, Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch chỉ là khách qua đường. Tài nguyên hết, ưu thế địa lý không còn, thì những đại phố kia, những đình tạ nọ... chỉ như bóng mây qua.

Thôi cũng đành như chiếc que diêm,

Một lần lóe lên...

 

Nguyễn Hữu Cảnh đến cù lao Phố ngay lúc cù lao với cảng đang hưng thịnh, chắc là vào cù lao Phố theo cửa Cần Giờ, ngược lên Biên Hòa.

(Sơn Nam, Đất Gia Định xưa)

 

MỸ THO ĐẠI PHỐ

Từ thế kỷ thứ XVII, khi Mỹ Tho đại phố đã là đô thị sầm uất, thì Bến Nghé – Sài Gòn còn là một khu chợ nhỏ và Trấn Giang – Cần Thơ, thì hầu như chưa được biết đến.

Đến năm 1679, Mỹ Tho đại phố ra đời. Mỹ Tho đại phố xưa tọa lạc tại làng Mỹ Chánh, nằm dọc theo nhánh bên trái của rạch Mỹ Tho, bắt đầu từ bến Tắm Ngựa, chỗ tiếp giáp giữa rạch Mỹ Tho với sông Tiền, chạy dài theo đường Nguyễn Huỳnh Đức bây giờ đến cầu Vĩ, Gò Cát (xã Mỹ Phong, TP Mỹ Tho ngày nay).

Một con đường ở Mỹ Tho.

 

Trường Collège de Mytho, do Pháp xây dựng năm 1879, xưa nhất ở Nam bộ.

Ga xe lửa Mỹ Tho xưa _ (Sài Gòn - Mỹ Tho, tuyến xe lửa đầu tiên ở Đông Dương)

Tàu lửa Sài Gòn - Mỹ Tho ngừng hoạt động sau 73 năm gắn bó người dân Nam Bộ

Nhắc đến dấu ấn Mỹ Tho đại phố thì không thể nào không nhắc đến tuyến xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho. Đây là tuyến xe lửa duy nhất của lục tỉnh, cũng là tuyến đường sắt đầu tiên ở Việt Nam và cả Đông Dương được người Pháp xây dựng, nối TP.HCM với Mỹ Tho. Tuyến xe lửa năm nào góp phần đưa Mỹ Tho trở thành một trong những đô thị nổi bật nhất nhì đồng bằng.

Mười giờ tàu lại Bến Thành

Xúp lê vội thổi, bộ hành lao xao

(Ca dao)

 

TRẬN RẠCH GẦM-XOÀI MÚT

 

“Nơi đâu ta đã đem quân đến là quân thù đều bị đánh cho thất bại và tan tác.
Nơi đâu ta đã mở rộng chiến tranh là quân Xiêm và quân Thanh tàn bạo đều phải quy hàng.”
(Quang Trung - Hịch gửi quan lại, quân dân hai phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn)

(Phan Huy Lê và Đinh Xuân Lâm dịch theo bản tiếng Pháp của De la Bissachère)

“Người Xiêm từ sau cuộc bại trận năm Giáp Thìn, miệng tuy nói khoác mà lòng thì sợ Tây Sơn như cọp” (Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, t. II).



Trận thủy chiến lừng danh, quân Tây sơn đánh tan quân Xiêm diễn ra trên đoạn sông Tiền qua Mỹ Tho, năm 1785. Trận đánh tiêu biểu cho chiến thuật tốc chiến tốc thắng của vua Quang Trung, diễn ra trên địa hình sông nước, rất lạ lẫm với quân Tây Sơn. Chỉ diễn ra vẻn vẹn từ đêm hôm trước đến rạng sáng hôm sau.

Đêm ngày 18.1.1785, lợi dụng con nước đang xuôi, cả hai đạo thủy bộ quân Xiêm cùng rầm rộ tấn công.

Đến khoảng đầu canh năm ngày 19.1.1785, đoàn thuyền chiến của địch lọt vào trận địa mai phục của quân Tây Sơn ở Rạch Gầm - Xoài Mút. Từ hai bờ sông Tiền (đoạn Rạch Gầm-Xoài Mút), các đại bác cùng pháo hỏa hổ của bộ binh Tây Sơn bắn dữ dội vào đoàn thuyền địch.

Đồng loạt, thuyền Tây Sơn từ Rạch Gầm - Xoài Mút ẩn trong các cồn bãi và cù lao, xông ra đánh mạnh. Cùng lúc ấy, quân Tây Sơn cho những thuyền nhẹ chở đầy những vật liệu dễ cháy đâm thẳng vào khiến nhiều thuyền quân Xiêm bị chìm, bị cháy...

Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, quân Tây Sơn lao vào cuộc chiến đấu quyết liệt. Một viên tướng quân Nguyễn về Long Hồ kể cho Mạc Tử Sinh biết: "Nguyễn Huệ đốc chiến ở phía sau, ra lệnh liều chết đánh, quân sĩ nào không quyết chiến thì chém ngay để làm răn. Vì thế các tướng sĩ đều liều, không nghĩ gì đến tính mệnh... ". (Vũ Thế Dinh, Mạc thị gia phả)

Rạng sáng thì chiến cuộc cũng vừa dứt. 300 chiến thuyền và 2 vạn thủy binh của Xiêm cùng một số quân của chúa Nguyễn, không đầy một ngày, đã bị quân Tây Sơn phá tan. Hai tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương chạy trốn về Sa Đéc, cùng vài nghìn tàn quân chạy bộ sang Chân Lạp rồi về Xiêm.

(Wikipedia)

Bần gie lửa đóm sáng ngời,
Rạch Gầm soi dấu muôn đời uy linh

(Ca dao)

 

Sau khi chiếm Nam kỳ, Pháp thiết lập nền hành chánh trên toàn miền Nam. Họ lập thêm nhiều tỉnh mới, có 10 tỉnh, như Vĩnh Long cũ chia thành 3 tỉnh mới là Trà Vinh, Bến Tre, Vĩnh Long. Gia Định chia thành Chợ Lớn, Gia Định, Tân An, Tây Ninh...

 

VÀI NHẬN XÉT CỦA DU KHÁCH PHƯƠNG TÂY VỀ SÀI GÒN

John White

Là Đại úy Hải quân Hoa kỳ, đến Sài Gòn năm 1819. Trích vài ghi nhận của ông:

Các quan chức ở Sài Gòn rất giỏi tiếng Y pha nho (Tây ban nha).

Đường xá thẳng như bàn cờ và rất rộng.

Dân số chừng 16 vạn, 1 vạn Hoa kiều.

Nước Việt phải hãnh diện đã thiết lập được một cơ sở như vậy không kém gì các cường quốc trên thế giới.

Giới quan lại hay đòi hỏi quà cáp và rất tham lam...

(John White, Hành trình đến Nam kỳ)

Chỉ J. White mới có những nhận xét về cơ sở vật chất, đời sống người dân và giới quan chức.

Hầu hết các phái bộ ngoại giao và khách du, khách thương khác chỉ nói về cảnh quan (sông nước)  phương tiện vận chuyển (thuyền bè) và nhất là chỉ chú ý đến nguồn hàng hóa, những mối lợi mà họ nhắm đến như gạo, gỗ, ngà voi, trầu cau, mía đường, bông vải, cá khô...

 

 

 

PHONG TRÀO ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC Ở NAM BỘ

Đông Kinh là tên thành Thăng Long đời Hậu Lê. Danh xưng Đông Kinh xuất hiện đầu tiên trong Đại Việt sử ký toàn thư là vào năm Mậu Thân, Thuận Thiên năm thứ nhất (1428).

Là phong trào cải cách giáo dục đầu tiên ở Việt Nam, do hai nhà yêu nước Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh xướng suất, sau khi tham quan mô hình này ở Nhật, năm 1905.

Khẩu hiệu của phong trào là “ khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”.

Trường Đông Kinh Nghĩa Thục được thành lập tại Hà Nội tháng 3.1907. Nhưng đến tháng 11.1907, bị thực dân Pháp đóng cửa.

Nhưng từ đó phong trào lan rộng ra Trung và Nam kỳ.

 

Mối liên hệ giữa Đông Kinh Nghĩa thục và cuộc Minh Tân ở Nam Kỳ.

Nam kỳ đã bị Pháp chiếm đóng hoàn toàn năm 1867. Nền Hán học chấm dứt, thay bằng chữ Pháp và chữ Quốc ngữ.

Phong trào Cần vương, vì thế, chỉ hoạt động ở Bắc và Trung kỳ, mà không gây tiếng vang nào ở Nam kỳ.

Công cuộc Minh Tân ở Nam Kỳ, cũng chính do Duy Tân hội phát động, nhưng có những nội dung khác hẳn ở Trung và Bắc. Minh Tân khách sạn, Minh Tân Công nghệ, là những sự kiện không hề có ở Trung và Bắc.

Nhờ sự vận động của Phan Bội Châu, nhờ ảnh hưởng và những hoạt động sôi nổi của Trần Chánh Chiếu (Gilbert Chiếu), công cuộc Minh Tân ở Nam bộ, rầm rộ và đa dạng hơn rất nhiều, chứ không chỉ gói gọn trong các Nghĩa thục (trường học).

Có thể nói các cơ sở Minh Tân đều thành lập sau khi Đông Kinh Nghĩa thục đã đóng cửa (11/1907).

- Minh Tân Khách sạn được thành lập vào tháng 1/1908. Báo Lục tỉnh Tân văn số ra ngày 30/01/1908 cho biết giá phòng hạng nhất là 1,1 đồng/ngày, nửa ngày là 0,5 đồng. Hạng nhì 0,8 đồng/ngày, nửa ngày là 0,4 đồng.

Cũng qua Lục tỉnh tân văn, chúng ta được biết Minh Tân Khách sạn có kinh doanh trà ngon, nước mắm Phú Quốc, chiếu, sáp, xà phòng và tạp hóa.

Đặc biệt vào buổi chiều tối có nhạc tài tử.

- Minh Tân Công nghệ được thiết lập vào tháng 3/1908 Minh Tân Công nghệ nhóm đại hội cổ đông vào ngày 31/5/1908. Trần Chánh Chiếu được Đại hội bầu làm Tổng lý. (Lục tỉnh tân văn, 17/06/1908).

- Minh Tân Khách sạn và Minh Tân Công nghệ đều được thiết lập ở Mỹ Tho. Ngoài ra còn có Minh Tân Mễ Túc tổng cuộc.

Ở Sài Gòn có Nam Trung Khách sạn, Chiêu Nam lầu đều được thành lập năm 1908.

Đó đều là những công cuộc thiết thực, phù hợp với trào lưu và bám sát tôn chỉ “ khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” .

(Chương Thâu, Đông Kinh nghĩa thục và phong trào nghĩa thục ở Việt Nam _ Trần Viết Ngạc, Suy nghĩ thêm về Đông kinh Nghĩa Thục)

 

ĐỌC THÊM

TRÍCH ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC, NGUYỄN HIẾN LÊ

 

Tại Nam, như trong một chương trên tôi đã nói, ba chí sĩ đầu tiên hưởng ứng phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục là các cụ Nguyễn An Khang, Nguyễn An Cư và Nguyễn Thần Hiến. Phải kể thêm cụ Trần Chánh Chiếu, tức Gilbert Chiếu.

Cụ Nguyễn An Khang là một nhà văn danh tiếng ở Sài Gòn thời đó, viết giúp tờ Nông cổ mín đàm và dịch nhiều truyện Tàu như Tam Quốc chí, Thủy hử, Phấn Trang lầu... Cụ lập một khách sạn đặt tên là Chiêu Nam lầu để đưa rước các thanh niên xuất dương.

Cụ Nguyễn Thần Hiến, quê ở Hà Tiên, lập nghiệp ở Cần Thơ, sau khi lập Khuyến du học hội, bị người Pháp dòm ngó, biết không thể hoạt động trong nước được nữa, năm 1908 lén qua Trung Hoa, Nhật Bản, Thái Lan, gặp cụ Phan Bội Châu ở Thái Lan, năm 1913 đem về nước một số tạc đạn mua ở Hương Cảng bị bắt giam ở Hà Nội, tuyệt thực và mất đúng ngày nguyên đán năm Giáp Dần (1914).

Cụ Trần Chánh Chiếu, tức Gilbert Chiếu, cũng gọi là Phủ Chiếu, vì cụ được chức phủ hàm, quê ở Rạch Giá, làm chủ bút tờ Lục tỉnh tân văn, có lần bí mật qua Hương Cảng hội đàm với cụ Sào Nam, do con là Trần Văn Tiết (tức Jules Tiết mà có sách chép là Jules Tuyết) du học ở Hương Cảng giới thiệu, rồi đem những bản hiệu triệu bằng Hán văn của cụ Sào Nam về nước. Cụ cùng với cụ Nguyễn Thành Út lập Minh Tân công nghệ xã để nấu xà bông ở Chợ Lớn và Minh Tân khách sạn ở trước ga xe lửa Sài Gòn để đón tiếp các đồng chí.

Ngoài ra, cụ Đặng Thúc Liêng ở Sa Đéc cũng hoạt động ít nhiều. Nhờ các cụ ấy mà các sách cách mạng của cụ Sào Nam, những bài ái quốc của Nghĩa Thục được truyền vào Nam và một số đông thanh niên được đưa qua Nhật, như Trương Duy Toàn, Đỗ Văn Y, Nguyễn Háo Vĩnh...

Năm 1910, các cụ ở Đông Kinh trừ cụ Lê Đại, bị đưa từ Côn Đảo về an trí tại Nam Việt. Tuy bị dò xét kỹ, các cụ không hoạt động được gì nữa, song nhờ tư cách cùng chí khí, các cụ cảm hóa được một số đồng bào. Nhiều gia đình ở Long Xuyên, Sa Đéc, Bến Tre ngưỡng mộ các cụ, cho con em lại học và một số đông nhà cách mạng lớp sau này, nghĩa là từ 1925 trở đi, tự hào rằng đã được các cụ dạy bảo hồi còn nhỏ. Người Pháp đâu có ngờ rằng bắt các cụ biệt xứ lại là vô tình giúp các cụ cơ hội gieo mầm cách mạng ở những nơi xa xôi.

Tính tình ngang tàng của cụ Võ Hoành đã nhiều lần làm cho nhà cầm quyền ở Sa Đéc bực mình mà cứ phải nhắm mắt làm lơ. Từ chối số tài trợ 10đ. chính phủ tặng mỗi tháng, đó chỉ là việc thường, mặc dầu 10đ, hồi 1910 bằng vài ngàn đồng bây giờ; không chịu đóng thuế thân, lính hỏi thì bảo lính: “Lại đòi quan Chánh Tham biện, chính phủ thiếu tôi mỗi tháng 10đ, đã biết mấy năm rồi”, cũng chỉ là một việc thường nữa; đến như ngày lễ Cách mạng Pháp (14 tháng 7 d.l.) lính bảo treo cờ tam tài, cụ ừ ừ rồi bảo con gái thượng ngay một chiếc quần móc trên đầu sào ở gần cửa, thì quả thực đầu cụ là đầu “sọ gáo”.

(Nguyễn Hiến Lê – Đông Kinh Nghĩa Thục)

 

 

 

 

HẮC BẠCH CÔNG TỬ

Miền đất Nam bộ giàu có đã sản sinh ra 2 nhân vật tiêu biểu, nổi tiếng về mức độ ăn chơi và hoang phí: Hắc công tử Trần Trinh Huy và Bạch công tử Lê Công Phước.

Nhiều sách báo cho biết, gia sản Hắc công tử nghe qua thật khủng khiếp, 150.000 mẫu ruộng lúa và 50.000 mẫu ruộng muối. Bạc công tử khiêm tốn hơn, chỉ 1.000 mẫu.

Quê Hắc công tử ở Bạc Liêu, nơi ông Cao Văn Lầu viết bản Vọng cổ đầu tiên, Dạ cổ hoài lang, góp nội dung phần ca cho loại hình nghệ thuật đặc sắc của Nam bộ, hát cải lương (cải lương gồm ca, múa và diễn).

Nhưng chính Bạch công tử mới là người đóng góp nhiều cho cải lương. Vốn mê cải lương, ông cùng người bạn cho ra đời gánh hát cải lương đầu tiên, gánh Phước Cương, ghép tên ông người bạn, Nguyễn Ngọc Cương. Đào chính của gánh cũng là vợ ông, cô Bảy Phùng Há, nổi danh thanh sắc. Sau khi gánh tan rã, ông lập gánh riêng lấy tên là Huỳnh Kỳ.

Ngôi nhà của Bạch công tử ở Mỹ Tho

Nhà Công tử Bạc Liêu, Hắc công tử

 

VÀI GIAI THOẠI

Hai đại thiếu gia Hắc Bạch nầy khét tiếng ăn chơi xa hoa phung phí như ném tiền qua cửa sổ. Có tiền rồi thì cũng muốn nổi tiếng, lừng danh trong thiên hạ. Hai tay công tử nầy tranh đua nhau đốt tiền để nổi danh, tạo ra những giai thoại như thi nhau đốt tiền nấu chè, đốt tờ giấy 100$ để tìm tờ 5$.…

Những chuyện chơi ngông của Hắc công tử thì rất nhiều.

Như chuyện đi thăm ruộng bằng...máy bay. Vì ruộng nhà quá rộng mà. Có lần ông giành lái với phi công người Pháp, bay lạc tuốt qua đất Thái Lan. Cha ông phải mang 200.000 giạ lúa qua chuộc người và máy bay về. Đó là một trong 2 chiếc máy bay tư nhân của cả nước. Chiếc kia của vua Bảo Đại.

Hay lần lên Sài Gòn chơi, đi dạo phố với hàng chục chiếc xe kéo. Chiếc ông ngồi, còn những chiếc khác thì để những vật dụng lặt vặt như là cái nón, cây can…chạy theo xe không, cũng được trả tiền.

Bạch công tử cũng chẳng kém.

Ông từng đưa mguyên gánh Phước Cương qua Pháp lưu diễn, đưa cả đầu bếp riêng sang nấu ăn cho ông. Giao du toàn giới thượng lưu, sang trọng.

Cặp kè với cả công chúa Nga, lúc ấy sang Pháp tị nạn, sau cách mạng tháng 10 ở Nga. Thuê du thuyền riêng đi câu cá, sang Tây ban nha xem đấu bò...

Bạch Công tử đã tiêu tốn rất nhiều tiền vì sự nghiệp cải lương. Thời đó những gánh hát khác đều đi bằng ghe chèo thì Bạch Công tử lại sắm một lúc tới 3 chiếc ghe có gắn máy, dùng để chở đào kép đi lưu diễn, và ghe được trang bị như là du thuyền.

Phú quý như phù vân !

Khi 2 ông mất thì tiền của cũng trôi mất theo, chỉ còn lại 2 ngôi biệt thự, chứng nhân cho một thời đã qua.

 

 

TRÀ VINH, TỈNH NHỎ XINH ĐẸP ĐÁNG YÊU

 

Trong số hàng chục tỉnh Nam bộ, có nhiều tỉnh vang danh nhờ sông nước hữu tình như Cần Thơ, từng là Tây đô, kinh đô miền tây; Tây Ninh với thánh thất Cao đài, An Giang với núi Cấm và lễ hội Bà chúa Xứ, Bạc Liêu là quê hương công tử Bạc Liêu và bản Vọng cổ trứ danh, Dạ cổ hoài lang.

Hay Vĩnh Long, quê hương cụ Phan Thanh Giản, vị Tiến sĩ Nho học đầu tiên của miền Nam và Trương Vĩnh Ký, vị bác học của Việt Nam thế kỷ 19.

Cả Bến tre, được nhiều người biết đến với dừa, ông đạo dừa và món hủ tiú nổi tiếng.

Thế nhưng để đến rồi nhớ thương, rồi lưu luyến, rồi hẹn ngày trở lại duy chỉ có một nơi rất ít người biết, khách du lịch chẳng mấy khi tìm hiểu vì không tiếng tăm, không bảng hiệu, không có cả danh nhân văn hóa, không có cảnh đẹp nên thơ.

Ấy là Trà Vinh.

 

Nằm kẹp giữa sông Tiền, sông Hậu, diện tích hơn 2.300km2, dân số chừng 1,1 triệu người.

Đây là tỉnh có diện tích tự nhiên vuông vức ngay ngắn nhất trong cả nước.

Tỉnh Trà Vinh (màu đỏ)

 

 

Nguồn gốc của tên gọi Trà Vinh, ban đầu vốn tên là Trà Vang, là từ tiếng Khmer, đọc trại từ chữ Prăc Prâbăng (hay Trah Păng), có nghĩa là “hồ Phật”. Hồ này nằm trong làng Đồn Hoa, thuộc tổng Trà Phú, cách trung tâm tỉnh lỵ 9km, bên cạnh hồ có ngôi chùa Khmer do vua Chân Lạp xây dựng.

Tỉnh Trà Vinh có hình chữ nhật, ranh giới tự nhiên tại 3 cạnh là sông Cổ Chiên ở phía Bắc giáp tỉnh Bến Tre, phía Nam có sông Hậu giáp tỉnh Sóc Trăng (xưa gọi là Sốc Trăng), phía còn lại giáp biển Đông.

Trong chuyên khảo về tỉnh Trà Vinh được Hội Nghiên Cứu Đông Dương thực hiện hồi đầu thế kỷ 20, cho rằng tỉnh Trà Vinh được thiên nhiên dành cho những tính chất cần thiết để trở thành một xứ sở đồng ruộng phì nhiêu, gần như trọn diện tích của tỉnh là cánh đồng bằng phẳng với một số giồng, những dải đất cát dài có pha trộn đất màu mỡ, đặc biệt là thích hợp với các loại canh tác khác nhau.

(Lịch sử hình thành và hình ảnh ngày xưa của tỉnh Trà Vinh)

Đường xá Trà Vinh 100 năm trước. Hai bên đường luôn có cây cao bóng mát và lề đường rất rộng, gần ngang với mặt đường.

Nhà vườn ở Mặc Bắc

 

 

Lăng mộ một người người Việt giàu có ở Cầu Ngang

 

Giai đoạn từ năm 1732 đến năm 1900.

Từ 1732, khi chúa Nguyễn lập châu Định Viễn, dinh Long Hồ, thì đã có vùng đất với tên gọi là Trà Vang.

Qua vài lần đổi tên đến 1832, thời Minh Mạng lập Trấn Vĩnh Long, Trà Vinh thuộc trấn này.

Năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ chia toàn bộ Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính  trong đó có khu hành chính Vĩnh Long gồm 4 tiểu khu: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Sa Đéc. Tiểu khu Trà Vinh là tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này.

Ngày 20/12/1899, Toàn quyền Đông Dương Doumer cho đổi tên gọi tiểu khu thành tỉnh. Nam Kỳ lục tỉnh cũ được phân chia lại thành 10 tỉnh mới, tỉnh Vĩnh Long cũ được tách ra thành 3 tỉnh mới: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh. Từ đây, tên tỉnh Trà Vinh được sử dụng chính thức trên các văn bản tiếng Pháp là Province de Trà Vinh.

(Sơ lược lịch sử hình thành tỉnh Trà Vinh)

Vậy là Trà Vinh xưa chỉ là phố huyện nhỏ, trực thuộc tỉnh Vĩnh Long. Hưởng chút hương thừa của một tỉnh thành Vĩnh Long danh trấn võ lâm.

Người ta biết đến Trà Vinh chỉ nhờ Ao Bà Om.

Nghe “Ao”, cứ tưởng nó nhỏ xiú. Như cái ao làng. Nó rộng đến cả hàng trăm ngàn mét vuông. Không hiểu vị nào nỡ gọi rằng Ao. Xung quanh là hàng trăm cây sao, dầu cổ thụ, trăm năm tuổi, nổi vô số bộ rễ kỳ dị vờn quanh.

Có nhiều sự tích về sự hình thành ao. Nhưng tựu trung, người chỉ huy đào ao là Bà Om, là người thắng cuộc nên tên bà thành tên ao.

Đây cũng là tỉnh có nhiều chùa Khmer nhất, hơn 140 ngôi. Khách hành hương chẳng cần đến Ấn độ, Nepal, chi cho xa xôi. Đây hẳn là xứ Phật.

Cái đáng yêu của Trà Vinh không ở đó. Nó hình thành từ thái độ tôn trọng và yêu thiên nhiên, cây cỏ của mọi người dân và các cấp chính quyền thành phố này.

Mọi thiết kế đô thị, mọi thi công đường xá đều tránh tối đa việc đụng chạm đến công trình xưa, xâm phạm đến gốc cây ngọn cỏ. Thế nên con số cây cổ thụ ở thành phố Trà Vinh thật đáng nể (hơn 14.000). Và đáng khâm phục hơn, không có chuyện treo bảng quảng cáo, giăng dây điện, móc bóng đèn, trên cây.

 

 

Đường phố Trà Vinh ngày nay.

Mới đây, Trà Vinh đã phá bỏ vỉa hè xung quanh những gốc cây để chúng đủ sức phát triển. Cũng không có gì là lạ khi đến Trà Vinh, mọi người đều cảm nhận sự chung tay gìn giữ cây xanh của tất cả người dân. Ở đó không hề có bất cứ chiếc đinh, vít nào đóng vào thân cây đi kèm với những biển quảng cáo; không có chuyện mắc bóng đèn trên những thân cây từ các quán cà phê, kinh doanh; không có nạn bóc vỏ cây, giăng mắc sào phơi như ở những nơi khác. Hàng trăm cây cổ thụ được tiếp nước và thuốc bồi dưỡng cho cây trước nắng hạn, tất cả vì một mục đích làm cho khoảng không gian vốn đã xanh nay lại xanh thêm.

Ông Thạch Chia, ngụ phường 7, Tp. Trà Vinh nói, “người dân địa phương rất “cưng” cây xanh, luôn xem chúng là thành viên chung của gia đình mình, thành phố mình. Bất kỳ ai có hành động ngược đãi, xâm hại chúng đều được phát hiện, ngăn chặn kịp thời”.

Nhiều du khách đến Trà Vinh đều có chung đánh giá nơi đây có nhiều nét tương đồng với một số tỉnh của Thái Lan bởi đi đâu cũng thấy chùa chiền, tiếng nhạc ngũ âm. Nhưng Trà Vinh lại đẹp hơn, uy thiêng hơn, cổ kính hơn bởi đang sở hữu hàng chục ngàn cây cổ thụ quý hiếm nhất Việt Nam.

(Trà Vinh: Nơi “mát” nhất miền Tây)

 

Một góc trung tâm thành phố ở phường 1 nhìn từ trên cao với nhiều cây xanh cao lớn, tán lá rộng che bao phủ nhiều diện tích không gian.

TP Trà Vinh hiện có hơn 14.463 cây tạo bóng mát trên 87 tuyến đường. Trong số này, có 800 cổ thụ trên 100 tuổi ở 20 đường khu vực trung tâm (phường 1-7) và khu vực Ao Bà Om (phường 8). Với diện tích 68 km2 và khoảng 115.000 người, thành phố đạt độ phủ cây xanh bình quân hơn 29 m2 mỗi người (gấp khoảng 10 lần trung bình của các đô thị trong cả nước).

Dầu cổ thụ nằm ở khu vực giao nhau giữa đường Hùng Vương và Lê Lợi (trước cổng UBND tỉnh). Khi mở tuyến đường này vướng cây dầu, thành phố không đốn mà làm tiểu đảo bao quanh gốc và trang trí tạo mỹ quan đô thị.

 

Chùa Âng ở phường 8 xây từ năm 990, lâu đời nhất tỉnh, nằm giữa rừng cây. Thành phố có 12 ngôi chùa của

đồng bào Khmer. Các chùa đều trồng nhiều cây xanh, nhìn trên cao giống như khu rừng thu nhỏ, góp phần làm cho không khí trong lành, mát mẻ.

Nằm cạnh chùa Âng là danh thắng Ao Bà Om rộng hơn 300 ha, gồm 3 phần chính là: ao (15 ha), bờ ao và rừng cây cổ thụ bao quanh. Mặt nước ao trong xanh, phủ hoa sen, súng.

(Thành phố trong 'rừng' cổ thụ 100 tuổi ở miền Tây - Báo VnExpress)

 

  1. Trà Vinh xếp thứ 3 trong top 15 thành phố có không khí trong lành nhất Đông Nam Á. Tháng 3/2024, Cơ quan theo dõi chất lượng không khí toàn cầu IQAir (Thụy Sĩ), công bố Trà Vinh xếp thứ 3 trong số 15 thành phố có chất lượng không khí trong lành nhất tại Đông Nam Á và được xếp hạng trong lành nhất Việt Nam.

 

 

VĂN HỌC CHỮ QUỐC NGỮ Ở MIỀN NAM

 

Như đã nói qua, sau khi chiếm trọn miền Nam, năm 1867, thực dân Pháp, muốn xóa bỏ nền Nho học cả ngàn năm, bỏ chữ Hán, hô hào sử dụng chữ Quốc ngữ và chữ Pháp, mà những người tiên phong là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của và Trương Minh Ký, cuối thế kỷ 19. Đầu thế kỷ 20 cho đến năm 1920-30, nổi lên là Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh, Trần Phong Sắt... và lạ lùng, mãi tận cuối trời phương Nam, là Đông Hồ Lâm Tấn Phác.

Ngay từ đầu thế kỷ 20, với phong trào báo chí nở rộ, trường văn trận bút có chỗ thi thố, giới thiệu rất nhiều cây bút, vừa là ký giả, vừa là nhà văn.

Nhưng chính người trong giới lại chê bai, dè bỉu. Rằng văn học thời kỳ đầu như văn của Hổ Biểu Chánh, “đọc thì đọc, thích thì cũng thấy thích, duy chúng tôi không chịu được lời văn viết trơn tru thẳng tuột hời hợt của ông”. (lời Đông Hồ)

Báo chí thì sao ? Như Gia Định báo, chỉ rặt đăng thông cáo của nhà nước; Nông Cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn chỉ là cổ võ chuyện làm ăn, buôn bán. Đâu phải là văn học nghệ thuật. Truyện xuất bản nhiều, bán chạy thì chỉ dịch truyên tàu, không có giá trị văn chương, (lời Phạm Quỳnh).

Chuyện rất trớ trêu chữ quốc ngữ khởi từ miền trung, miền bắc. Nhưng Nam kỳ mới là nơi phổ biến nó, phát triển nó, làm sách vở, tức là làm văn học bằng nó, từ nó.

Văn phong của hai ông tổ sư chữ quốc ngữ thời kỳ đầu là Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của vẫn bị chê là trơn tuột, quê mùa, nhưng phân minh đến từng dấu hỏi, dấu ngã. Ảnh hưởng của hai ông rất lớn, đến tận những năm 20, 30 thế kỷ 20, sách báo viết văn rõ ràng, tách bạch là từ hai ông.

Văn học Nam bộ thời kỳ đầu ta những tưởng là không còn gì cái gốc Nho học. Nhưng nếu xem qua thư mục sách báo của 2 nhân vật nổi danh nhất Nam bộ, Trương Vĩnh Ký và Hồ Biểu Chánh, ta sẽ ngạc nhiên:

Công trình của Trương Vĩnh Ký: Một người Tây học, theo đạo Thiên chúa, nhưng trong toàn bộ công trình trước tác có rất ít bài, sách nói về đạo Thiên chúa hay văn hóa Tây phương.

Quốc ngữ về văn hoá Việt Nam chịu ảnh hưởng nho học: 70 tập Nho học 45 tập Đông Nam Á học 20 tập Văn hoá Pháp (từ điển, văn phạm) 15 tập.

Tác phẩm của Hồ Biểu Chánh: - là người học Chasseloup Laubat, đỗ bằng Thành Chung (diplôme). - Tiểu thuyết : 64 cuốn. Tất cả đều có nội dung phản ánh Nho học. - Khảo cứu: 23 cuốn, chỉ có 2 cuốn nói về phương tây: Pháp quốc lược khảo và Âu Mỹ cách mạng sử.

(Nguyễn Văn Trung – Hồ sơ về Lục châu học)

Dưới đây là trích các từ đậm đặc Nho gia đã được các vị Nam bộ rặt, sưu tập và phổ biến:

Sưu tầm của Trương Vĩnh Ký đăng trong Thông loại khóa trình, ghi là của Đặng Đức Tuấn làm (Báo được xuất bản “để cho học trò coi chơi cho vui”. Tiếng là “coi chơi”, nhưng cốt sẽ “mưa dầm thấm lâu” giúp trẻ “biết phép tắc, lễ nghi, cang thường, luân lý, biết chữ nghĩa văn chương, kinh sử truyện tích cổ kim ấy là đấng đợt con người tử tế”.)

 

Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác ;

Ích kỷ hại nhơn,

Vô tửu bất thành lễ,

Sanh kí tử quy,

Họa đơn vô chí,

Phú quý như phù vân,

Hổ phụ sanh hổ tử,

Dĩ hòa vi quới,

Bình an vô sự,

Tấn thối lưỡng nan,

Mưu sự tại nhơn, thành sự tại thiên ;

Tửu nhập ngôn xuất,

...

Đều là những câu ta thường nghe, thường nói trên bàn rượu, nơi quán xá, những khi trà dư tửu hậu. Mà không ngờ rằng, chính những người tiên phong trong phong trào chữ quốc ngữ ở miền Nam, những ông đồ Tây, học chữ Tây, được Tây đào tạo, là những người ra sức gìn giữ để lớp sau biết mà trân trọng, nâng niu...

 

Còn đây là công trình của Trương Minh Ký (Lời nói thường dùng, rút trong Tam Quốc. Sưu tầm này in trong tuần báo Nam Kỳ, ký tên Mai Nham, là bút hiệu của Trương Minh Ký, gồm 162 câu) :

Đồng tâm hiệp lực,

Tham sanh (h)uý tử,

Tả xung hữu đột,

Chiêu hiền đãi sĩ,

Hô phong hoán võ,

Trầm ngư lạc nhạn,

Thiên văn địa lý

Trung quân ái quốc,

 

Mai Nham (Báo Nam Kỳ số 80, 11/5/1899)

 

Trong số những câu kể trên, chúng tôi, những người lúc bé có học chữ Nho, thế hệ 60 tuổi chỉ nghe quen chừng 20 đến 30 câu. Vậy hàng trăm câu chữ Nho, Tam Quốc được rút ra thành châm ngôn ứng dụng trong đời sống hàng ngày thời Pháp mới sang, bắt buộc chúng ta phải nghĩ rằng Nho học của Tứ thư Ngũ kinh, truyện Tàu, đã phổ biến khá sâu rộng trong mọi giới, kể cả các tầng lớp dưới, là những tầng lớp ít người biết đọc chữ Nho nên đa số chỉ nghe được những lời khuyên dạy hoặc kể truyện.

(Nguyễn Văn Trung, Hồ sơ về Lục châu học)

Thế là ở vùng đất mới là phương nam này, những ông đồ Tây, thạo chữ Tây hơn chữ Việt, lại không hề chê bai Nho học là hủ bại, là cổ hủ, là kéo lùi đà tiến của dân tộc.

Họ đề cao Nho học, lấy Nho học làm cơ sở. Không đả phá, không vùi lấp nền tảng của dân tộc nghìn năm.

Văn chương của Hồ Biểu Chánh, và của Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký... trước kia, họ viết như nói, trơn tuột, thiếu nét hoa mỹ, thiếu tính văn hoa. Nhưng luôn đúng với văn phạm, với chính tả. Lối viết phân minh mà họ học được từ nền văn học Pháp.

Họ không học từ ai, từ lối viết nào. Chỉ nghĩ sao viết vậy, như cách nghĩ, cách sống của người dân miền Nam vậy.

Chỉ trong chừng hai mươi, ba mươi năm, nền văn học ấy phát triển rực rỡ. Từ những bài báo dạy cách sống, nếp nghĩ, giáo dục, sang văn học đúng nghĩa. Tức là ban đầu là truyện dịch từ Tây, Tàu, sang dần đến sáng tác muôn hình vạn trạng. Tâm lý ái tình, phiêu lưu mạo hiểm, xã hội, trinh thám...

Nền văn học ấy đã trở thành di sản quý báu của dân tộc.

 

TRÍCH

Dưới đây chính là “tiểu thuyết” đăng báo đầu tiên của văn học Việt Nam.

 

Có một người buôn bán gởi mấy gói hàng của nó cho tên chăn bò kia đi một đàng với nó. Nửa đàng, người buôn bán xán bịnh đau nặng, theo không kịp bầy bò. Lâu ngày, tên chăn bò thấy vắng mặt người bán hàng, tưởng nó đà chết rồi, mới bán phức mấy bó hàng, lại bỏ nghề cũ đi. Khi người buôn bán mạnh, tới thành kiếm tên chăn bò, lâu ngày mới gặp, hỏi nó mấy bó hàng. Nó chối nói mình không phải là kẻ chăn bò. Người bán hàng tức mình đâm đơn kiện với quan sở tại. Quan không biết xử làm sao, chuyện vô bằng, mới bỏ đi vô. Khi hai người tiên cáo, bị cáo đi khỏi dinh, ông quan ấy đi quanh ra phía rào đứng kêu lớn lên “Ớ chú chăn bò lại biểu một chút”. Tên chăn bò vùng ngó lại, quên lửng rằng mình mới chối làm nghề đó. Đó ông quan nầy cho đòi người buôn bán lại. Rồi dạy tra anh chăn bò, khai hết tự sự. Quan ấy dạy thưởng cho anh bán hàng rồi làm án anh ta.

Trương Minh Ký _ Gia Định báo, ngày 1.12.1881

(Văn chương Sài Gòn 1881-1924, tập 1, Trần Nhật Vy sưu tầm)

 

Không phải “Thầy Lazaro Phiền” của Nguyễn Trọng Quản, xuất bản năm 1887, là tiểu thuyết văn học đầu tiên. Chính Trương Minh Ký, học trò Trương Vĩnh Ký, mới là người thứ nhất viết “tiểu thuyết”. Dù chỉ là một truyện rất ngắn, lại là truyện đăng báo, nên ít người biết đến.

 

VÀI KHUÔN MẶT LẠ CỦA VĂN HỌC NAM HÀ

Từ đầu thế kỷ 20, nối tiếp những cây bút mở đường, lần lượt nổi lên những người tiếp sức cho dòng văn học Nam hà.

Đầu tiên là tờ Nông cổ mín đàm (uống trà bàn chuyện làm ruộng và đi buôn), có thể xem là tờ Thời báo kinh tế đầu tiên của Việt Nam (ra số đầu tiên năm 1901, so với tờ Financial Times danh tiếng của Hoa Kỳ, 1888, chỉ sau 13 năm). Hai trong số các cây bút chủ lực là hai ông đồ Tây chính hiệu: Nguyễn Khắc Huề, giáo viên học chữ Tây và dạy chữ Tây, đăng nhiều văn thơ cổ trên báo; và Trần Chánh Chiếu tức Gilbert Chiếu, người khởi xướng phong trào Minh Tân ở Nam bộ; các bài vở của ông không dựa vào tư tưởng Tây học mà lại dựa vào Nho học để cổ vũ phong trào Minh Tân.

Dịch truyện Tàu đầu tiên là Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn An Khương, dịch Đông chu liệt quốc, Thủy hử, Tam quốc chí. Kế đó là Trần Phong Sắc, dịch hơn 40 bộ truyện Tàu. Đây là những người nổi tiếng nhất, còn có rất nhiều dịch giả khác không kể hết được.

Không biết có phải ham đọc truyện Tàu mà người dân Nam bộ mang cái tính phóng khoáng, ưa làm việc nghĩa, đại khái như giữa đường thấy chuyện bắt bằng mà tha. Hay đây chính là phong thái của họ ?

Cả cái tính ưa hát vọng cổ, mê ca cải lương cũng là một tính cách đặc biệt của dân Nam bộ. Vọng cổ, cải lương là loại hình nghệ thuật riêng có của Nam bộ. Người Nam bộ không thiếu tính sáng tạo.

Sau thời dịch truyện Tàu là đến thời sáng tác. Ban đầu còn mang hơi hướm của truyện Tàu, của Tây phương, dần dần chuyển sang sáng tác thuần tuý.

Ảnh hưởng Tàu là Hồ Biểu Chánh, Lê Hoằng Mưu...Ảnh hưởng Tây phương là Phú Đức (Châu về hiệp phố).

Đặc biệt là dạng truyện trinh thám, loại điều tra tội phạm, án mạng, rặt theo Tây phương, ảnh hưởng từ truyện Mỹ (truyện Thằng ăn trộm mặc áo đen), đã xuất hiện từ rất sớm, trên tờ Nông cổ mín đàm 1920.

 

NHỮNG KHUÔN MẶT LẠ

Cha Phan Văn Minh:

Đầu tiên phải kể đến Cha Philipphê Phan Văn Minh (1815-1853), nhà thơ và nhà ngữ học tiên phong. Bộ tự điển Dictionarium anamitico-latinum (Tự điển Việt-La tinh) xuất bản năm 1838 là do Ngài biên soạn cùng với Đức Cha Taberd.

Là nhà thơ, ông làm công việc khai sơn phá thạch, góp phần xây dựng nền quốc văn mới, cho dù thơ của ông chỉ nói về tôn giáo, ngợi ca Thiên chúa.

Theo nhà văn Võ Long Tê :‘‘Ông Nguyễn Văn Hiệp, trụ trì Bửu Long tự có đến thưa với Đức Cha Nguyễn Văn Diệp, Phó Giám mục Vĩnh Long rằng : Theo lưu truyền từ đời trước, chùa thờ bài vị thánh Minh Tử đạo và bài vị ấy đã trao cho Tòa Giám mục Vĩnh Long khoảng 1957-1958. Nay chùa muốn xin lại một bài vị khác để thờ.’’

(Đây hẳn là điều rất đặc biệt, chùa lại muốn xin bài vị của vị linh mục Thiên chúa để thờ).

Ông tử đạo tại Vĩnh Long năm 1853, được Vatican phong thánh năm 1988.

Lê Đình Thông

(THÁNH PHILIPPHÊ PHAN VĂN MINH (1815-1853) NHÀ THƠ VÀ NGỮ HỌC TIỀN PHONG (giaoxuvnparis.org)

 

Nhà văn Biển Ngũ Nhi:

Cuốn tiểu thuyết trinh thám đầu tiên là Kim thời dị sử của Biển Ngũ Nhi, 1921. Tên thật là Nguyễn Bính, học Collège Mytho, tốt nghiệp trường thuốc Hà Nội. So với các tiểu thuyết xã hội tâm lý cùng thời, Kim thời dị sử có văn phong khá hiện đại, không theo lối chương hồi, không có lối văn biền ngẫu. Cốt truyện có những tình tiết ly kỳ hấp dẫn, thắt mở hợp lý, đầy kịch tính và thu hút người đọc từ đầu đến cuối, khả năng trần thuật linh hoạt, mạch lạc.

 

 

Nhà văn Bửu Đình (1898-1931):

Ông là dòng dõi hoàng tộc, chắt nội vua Minh Mang. Vốn là công chức bưu điện, ông bỏ việc theo nghề báo. Tham gia hoạt động chống Pháp, ông bị giam vô thời hạn ở Côn đảo. Năm 1931 ông vượt ngục và mất tích trên biển.

Mảnh trăng thu là cuốn tiểu thuyết tiêu biểu của ông.

 

Trên nhật báo Thần Chung, nhà phê bình Thiếu Sơn có bài viết về nhà văn Bửu Đình như sau:

 

"Ông sở trường về tiểu thuyết, bây giờ đọc lại người ta chê là xưa, nhưng lớp người xưa như chúng tôi lấy làm thích thú về những nhân vật điển hình phần nhiều đều là những mẫu người lý tưởng hoặc là anh hùng, hào kiệt, hoặc là liệt nữ, chinh phu, những người sống chung với tất cả mọi người nhưng luôn luôn để tâm hồn, tình cảm vươn lên tới những đỉnh tuyệt vời của lý tưởng. Phải có những người như thế mới khiến cho ta không thất vọng và còn tin tưởng ở nhân loại. Có thể người ta chê B.Đ là không tưởng, nhưng không ai dám cho ông là tầm thường.

(Huỳnh Ái Tông: Nhà văn Bửu Đình (huynhaitong.blogspot.com)

 

SANH HOẠT ĐỊA PHƯƠNG

 

TÔN GIÁO VÀ HỘI KÍN

 

Khi những lưu dân đầu tiên đến Nam bộ, thì nối bước họ là các nhà sư, cả Việt lẫn Hoa, cũng theo chân, lập ra nhiều chùa, miễu trên khắp miền đất này.

Sớm nhất là chùa Hội Sơn, trên núi Châu Thới, nay thuộc tỉnh Bình Dương, các tài liệu ghi không thống nhất, năm 1621 hoặc 1681.

Miếu có sớm nhất là Thất phủ miếu, ở Cù lao Phố, Biên Hòa, năm 1684, (gọi Thất phủ vì do 7 bang hội người Hoa lập nên), hay còn gọi là Chùa Ông (thờ Quan Công).

Đến khi Pháp chiếm hoàn toàn miền nam, Thiên chúa giáo không còn bị cấm đoán như thời nhà Nguyễn nên thu hút nhiều tín đồ. Và trở thành tôn giáo lớn thứ hai.

Nhiều tổ chức kháng chiến mượn danh giáo phái để tránh bị thực dân Pháp theo dõi, và nhanh chóng lụi tàn khi cuộc kháng chiến bị dẹp.

Ví dụ như Georges Coulet, trong “Hội kín xứ Annam”,  ghi nhận năm 1916, Chánh tham biện Sa đéc bắt được một thủ lĩnh hội kín là nhà sư tên Phùng, và kết quả điều tra cho rằng Hội này có mục đích chống Pháp rõ ràng.

Georges Coulet cho rằng: “Tôn giáo địa phương cho hội kín mượn các công trình, sau khi đã có vị thế trong hội thì sẽ là hoạt động và trí tuệ của các nhà sư.”

Lý do là chùa thường ở vị trí biệt lập, khi tổ chức nghi lễ có nhiều người tập trung cũng ít bị để ý theo dõi.

Như vụ bạo loạn năm 1916 do giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương tổ chức từ chùa trên núi Cấm, Châu Đốc.

(G.Coulet, Hội kín xứ Annam, Nguyễn Thanh Xuân và Phan Tín Dụng dịch)

Hay vụ tay anh chị Tư Mắt, Nguyễn Văn Trước, tổ chức vụ phá khám lớn Sài Gòn cứu Phan Xích Long, năm 1916. Bị toà kêu án “gia nhập hội kín ám trợ Cường Để”  (Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa) .

Ta nhớ thời Lý_Trần, nhiều nhà sư tham gia chính sự, bàn việc nước. Họ tham gia chính sự chứ không làm chính trị. Góp ý, bàn công việc, với vua với triều đình. Và xong rồi thì về. Đó là thái độ chung của các thiền sư thời ấy. Làm thì làm nhưng không mắc kẹt vào công việc. Đó là pháp vô vi, không phải là pháp hữu vi.

Nhưng các nhà sư tổ chức kháng chiến, họ biết bàn công việc với ai? Hầu hết các lãnh tụ kháng chiến đều bị bắt, bị đày, bị tử hình từ cuối thế kỷ 19. Họ đứng lên để nhập thế, để giành lại đất nước, để đi tìm tự do, độc lập cho dân tộc. Họ hành đạo với tâm thế của người hiến dâng.

Họ tham gia với thái độ của pháp hữu vi. Họ biết sinh rồi sẽ diệt. Và chấp nhận nó. Nhưng vô hình chung, việc chấp nhận này đã biến hữu vi thành vô vi.

Chúng ta kính phục họ không kém các thiền sư thời Lý_Trần.

Đầu thế kỷ 20, có 2 tổ chức tôn giáo thành lập là Phật giáo Hoà Hảo, lập năm 1939 do giáo chủ là Huỳnh Phú Sổ. Tuy nền tảng là Phật giáo nhưng ông Huỳnh có biên soạn một số sấm kệ riêng. Về sau Hoà Hảo có lúc tham gia hoạt động chính trị nên thịnh suy thất thường. Nay đã ổn định và được thừa nhận.

Thứ hai là đạo Cao Đài, khai sinh vào năm 1926, do ông Ngô Minh Chiêu với Phạm Công Tắc là Hộ pháp, tức là người đứng đầu. Tôn thờ Thượng đế với biểu tượng là con mắt. Đạo này cũng tham gia hoạt động chính trị trong thời kỳ đầu, nhất là trong kháng chiến chống Pháp. Nay là tôn giáo lớn thứ ba sau Phật giáo và Công giáo.  

 

 

LỄ HỘI

 

LỄ HỘI MIẾU BÀ CHÚA XỨ 

Còn gọi lễ Vía Bà là một lễ hội của người dân Nam bộ, nằm dưới núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. Tổ chức hàng năm từ đêm 23/4 đến 27/4 âm lịch.

Ý nghĩa của lễ hội là nhằm gắn kết tinh thần cộng đồng các dân tộc, Việt, Miên, Hoa, Chăm, đồng thời để ghi nhớ công lao của tiền nhân trong quá trình khai mở và xây dựng vùng đất mới.

 

LỄ HỘI ĐUA BÒ BẢY NÚI

Cũng ở An Giang.

Mang đậm sắc thái của người Khmer, vùng nông nghiệp lúa nước. Tổ chức dịp lễ Dolta (lễ cúng ông bà) của người Khmer Nam bộ, từ 29-8 đến mùng 1-9 âm lịch.

 

LỄ HỘI CÚNG TRĂNG, OK OM BOK, Ở SÓC TRĂNG

Cũng là một lễ hội của người Khmer, nhằm tạ ơn và xin xá tội với thần linh, là thần Mặt trăng, vì đã làm tổn hại đến đất nước, môi trường...Óc Om Bóc nghĩa là đút cốm dẹp bốc tay nên còn gọi là lễ hội đút cốm dẹp, (trong buổi lễ, người lớn tuổi vo và bốc cốm dẹp đút cho trẻ). Tổ chức vào giữa đêm rằm tháng 10 âl. hàng năm.

Thường có cuộc đua ghe ngo, loại thuyền đặc trưng của Khmer.

Lễ hội này có ý nghĩa rất hay:

Về sự ra đời của lễ hội Oc om bóc, dựa vào các câu chuyện trong kinh điển Phật giáo và truyện cổ tích Khmer, người ta lý giải rằng, lễ hội cúng trăng ra đời từ một câu chuyện nói về tiền kiếp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đó là vào một đêm rằm trăng tròn, có một con thỏ phát nguyện tâm thiện muốn hiến thể xác của mình cho bất kỳ ai cần đến, để sớm được hóa kiếp khác. Lời nguyện đó ngay lập tức được vị thần Pres-anh đang ngự ở tầng trời nghe được. Ngài liền hạ giới, biến mình thành một cụ già, lom khom đến gần Thỏ xin được ăn thịt. Thỏ liền nhảy vào đống lửa tự thiêu mình, biến thành thức ăn cho cụ già (thần Pres-anh). Thế nhưng, khi đó ngọn lửa không những không thiêu chết Thỏ mà còn phải tắt đi. Xúc động trước việc làm thiện tính đó, thần Pres-anh bồng lấy Thỏ, bay một mạch lên cung trăng và dùng phép màu vẽ hình Thỏ in vào Mặt Trăng mãi mãi về sau này để con người thấy mà noi gương. Và, cũng từ đó lễ hội cúng trăng ra đời.

 

Sóc Trăng còn có một ngôi chùa đặc biệt: Chùa Dơi.

Các tài liệu nói chùa có từ 1569. Chùa nằm trong khu vườn rộng 4 ha. Không biết từ bao giờ, hàng đàn dơi về đây trú ngụ vào ban đêm. Điều lạ là chúng không bao giờ ăn trái cây trong vườn chùa. Ban ngày bay đi nơi khác kiếm ăn. Nên nhà chùa coi đây là điềm phúc. Trùng hợp là người Hoa cũng coi dơi là điềm phúc (chữ Bức là dơi đồng âm với Phúc là điều lành). Dơi treo ngược khi ngủ là “Phúc Đáo”, phúc đến rồi.

 

 

Lễ HỘI VÍA BÀ ĐEN, NÚI BÀ ĐEN, TÂY NINH.

Tổ chức từ mồng 4, tháng Giêng âl, và kéo dài suốt tháng.

Nguyên là ngọn núi lửa đã tắt, cao gần ngàn mét, là núi cao nhất Nam bộ.

Theo Gia Định thành thông chí, tên gốc của núi Bà Đen là Bà Dinh. Những bậc kỳ lão địa phương thì cho rằng tên gốc là núi Một. Đến khoảng nửa thế kỷ XVIII mới xuất hiện tên gọi núi Bà Đênh, sau gọi trại dần thành núi Bà Đen. Cũng có người gọi là núi Điện Bà.

Lễ hội nhằm tôn vinh sự tiết liệt của người phụ nữ Nam bộ.

Vì truyền thuyết kể rằng xưa có người con gái tên Lý thị Thiên Hương. Nhân một lần lên núi lễ chùa bị côn đồ vây bắt, nàng nhảy xuống núi tử tiết để giữ lòng trinh. Nàng hiện hồn báo mộng cho sư trụ trì dưới hình dáng một người con gái đen đúa. Vì thế mà thành tên.

 

Trong các lễ hội trên, lễ cúng trăng, Ok Om Bok, và đua bò Bảy Núi mang sắc thái địa phương. 2 lễ Vía Bà ở An Giang và Tây Ninh đều tôn thờ thần nữ.

Vía Bà Chúa Xứ, sao không là Ông Chúa Xứ ?

Ông Trần văn Dũng tác giả của công trình khoa học “Khai phá vùng đất Châu Đốc” cũng khẳng định, tượng bà Chúa Xứ thật ra là tượng nam ngồi ở tư thế vương giả, phần đầu của tượng hiện thờ tại miếu không phải là nguyên gốc được chế tác sau làm bằng chất liệu khác với phần thân tượng

(LY KỲ SỰ TÍCH VỀ BÀ CHÚA XỨ NÚI SAM Ở VÙNG CHÂU ĐỐC AN GIANG - Cáp treo Núi Sam)

Nguyên pho tượng Bà Chúa Xứ, có từ bao giờ không rõ. Nhà Khảo cổ người Pháp Malleret đến tận nơi khảo sát, 1941, thì cho đây là tượng thần Vishnu, nam thần Ấn giáo, của nền văn hoá Óc Eo, có từ thế kỷ 6.

Nhà văn Sơn Nam cũng cho đây là tượng nam thần của người Khmer, bị bỏ quên lâu đời trên núi Sam.

Người Việt tô điểm lại, đưa vào chùa, thành tượng nữ thần.

Theo Nguyễn Đức Toàn, thì:

 

Theo bước đường Nam tiến của dân tộc Việt, chúa Liễu đã từ Phủ Giầy (Nam Định), Đền Sòng (Thanh Hóa) đi về phương Nam, tạm dừng ở điện Hòn Chén (Huế) và gặp bà Pô Nưgar tại Nha Trang, gặp bà Đen (Linh Sơn Thánh Mẫu) ở Tây Ninh và bà Chúa Xứ ở núi Sam, Châu Đốc... Tất cả các bà đều là một Mẹ duy nhất trong tâm thức của tín ngưỡng và tập tục thờ mẫu của người Việt.

(Wikipedia)

Tín ngưỡng thờ Mẫu của ông bà tổ tiên từ ngoài Bắc vẫm in đậm trong lòng những người con xa xứ. Xưa làm sao, giờ làm vậy.

Từ thuở mang gươm đi mở cõi, cho đến tận ngày nay, cách cội nguồn ngàn dặm, những lưu dân, những người “xiêu tán đi biệt”, đến những chốn đồng không mông quạnh, nơi mà “tán hà đái thấp, chiết liễu triêm nê”, nơi chỉ có chim muông, hoang thú, cọp dữ rình quanh. Thì họ cần tìm một đấng linh thiêng, để che chở cho họ, ngoài những người khuất mặt, mà họ lập bàn thờ ngoài sân. Đấng linh thiêng ấy, trong tâm tưởng họ, là đấng mà tổ tiên họ đã tôn thờ _ BÀ CHÚA XỨ.

 

VÀI MÓN ĂN BẢN ĐỊA

 

Tây Ninh có bánh tráng Trảng Bàng, Mỹ Tho có hủ tíu, mà nguyên liệu chính, bánh tráng và sợi hủ tíu làm bằng gạo trồng ngay tại địa phương, có tiếng chính nhờ điều này.

Châu Đốc có bún mắm, món ăn tượng trưng cho nguồn thực phẩm phong phú ở miệt này (mắm chỉ là gia vị làm chất xúc tác cho nước dùng, nguyên liệu chính gồm hải sản, cá, mực, tôm và cả thịt ba chỉ hay thịt quay tuỳ khẩu vị, ăn kèm với vô số rau và nhất định phải có rau đắng, một cách cân bằng trong ăn uống). Sa Đéc có bánh phồng tôm. Xưa còn có bột Bích Chi, nay chỉ còn tên.

Riêng Sóc Trăng có nhiều đặc sản như bánh Cóng, gần giống món bánh tôm Tây hồ, Hà Nội; bún nước lèo và món bánh Pía, rất nổi tiếng, là món của người Hoa.

Trái cây thì cơ man không kể xiết. Đất phì nhiêu nên cây trái luôn lúc lỉu.

Thế nên, cách đây vài chục năm, các hàng quán bán trái cây miệt dưới, luôn tính chục, không phải là chục mười, mà là chục mười tám, mười sáu. Sau dần xuống chục mười hai. Giờ thì không còn nữa. Ôi, thời oanh liệt nay đâu !!!

 

TRÀM CHIM

Thuộc tỉnh Đồng Tháp.

Học giả An Chi thì cho là tên đúng phải là Chằm Chim.

Là nơi mà Sếu đầu đỏ, loài Sếu quý hiếm bậc nhất thế giới, mấy mươi năm trước, vẫn thường về trú đông, khoảng đầu tháng Giêng d.l.

Nay đã dần vắng bóng.

Loài chim này, từng có lúc, là nguồn cơn tranh cãi của các nhà khoa học, sử gia...Vì có vị cho nó là hiện thân của những cánh chim khắc trên trống đồng Đông Sơn, có vị bác bỏ.

Những sân chim, vườn cò ở các tỉnh như Bạc Liêu, Đồng Tháp, Long An, Cần Thơ và những cánh rừng tràm bạt ngàn ở Cà Mau từng là nơi cung cấp lông chim, mật ong, nguồn lợi thiên nhiên phong phú của Nam bộ. Vì thế mà xưa có nghề gọi là “nghề ăn ong”, chuyên đi rừng tìm tổ ong lấy mật.

 

CA VỌNG CỔ, HÁT CẢI LƯƠNG

 

Một vở cải lương ở Sài Gòn, trước 1975

 

Ra đời gần như đồng thời, Vọng cổ bắt đầu từ bài Dạ cổ hoài lang của Nhạc sĩ Cao Văn Lầu công bố năm 1919. Còn Cải lương, theo nhiều nhà nghiên cứu, có từ năm 1918.

Sau đó, Vọng cổ trở thành một phần trong nghệ thuật hát cải lương. Bộ môn nghệ thuật này có nội dung gồm ca, diễn, múa, với dàn nhạc cổ truyền như đàn kìm, guitar, đàn tranh, đàn nguyệt, song loan...

Nghệ thuật cải lương là kết hợp giữa đởn ca tài tử và hát dân ca truyền thống của Nam bộ.

Theo GS Trần Văn Khê:

“Cải lương là sửa đổi cho trở nên tốt hơn”, thể hiện qua sân khấu biểu diễn, đề tài kịch bản, nghệ thuật biểu diễn, dàn nhạc và bài bản. Ở đây là đã cải lương (cải cách, đổi mới) nghệ thuật hát bội.

Nội dung tuồng hát cải lương hay còn gọi là vở cải lương, thường có nội dung lịch sử, tâm lý xã hội, hôn nhân và ái tình. Tức là không khác gì điện ảnh hay kịch nghệ.

Miền Bắc có hát chèo, Trung có hát bội, thì Nam có cải lương. Người Nam bộ chẳng chịu kém ai về mặt nghệ thuật.

Vậy, cải lương là nghệ thuật thứ mấy ?

Thời cực thịnh của sân khấu cải lương là thập niên 1960 ở miền nam. Lúc ấy cải lương át cả tân nhạc và điện ảnh. Sân khấu cải lương đêm nào cũng sáng đèn, cũng đông nghịt khán giả. Nghệ sĩ cải lương được ái mộ như những ngôi sao. Có cả một giải thưởng thường niên cho nghề: giải Thanh Tâm. Đoàn hát nổi tiếng nhất, thường gọi là “gánh hát”, đoàn Thanh Minh-Thanh Nga.

 

Thứ hai từ trái qua là Năm Châu, thứ hai từ phải qua là Phùng Há. 2 nam tử tài tử cải lương nổi tiếng, trong một vở diễn năm 1931 ở Cần Thơ.

 

 

Cuối năm 2024

NTH

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Đăng nhập để gửi phản hồi cho bài viết