VÀI BỘ PHIM XƯA CÒN NHỚ

VÀI BỘ PHIM XƯA CÒN NHỚ

 

NHẠC PHIM VÀ TỰA PHIM

Buổi ban đầu của phim ảnh, hay còn gọi là nghệ thuật thứ bảy, không có lời thoại của nhân vật. Chỉ có các dòng phụ đề.  Nhưng đã có âm nhạc kèm theo.

 Đến khi có âm thanh đồng bộ với diễn biến của phim, thì nhạc đóng vai quan trọng. Đạo diễn hay nhà sản xuất đặt hàng nhạc sĩ viết riêng, gọi là nhạc đề.

Dĩ nhiên là âm nhạc làm tăng tính hấp dẫn của phim. Nhưng người ta đi xem phim chứ có nghe nhạc đâu. Nên xong phim thì quên nhạc phim ngay.

Riêng có vài ba phim mà nhạc át phim, hay ít ra cũng làm người ta nhớ ngang với nhớ tên phim.

Đó là bản Love Story, trong phim cùng tên, chiếu ở Việt Nam đâu khoàng năm 1970, 71 gì đó. Nội dung phim rất thường, bản nhạc cũng không xuất sắc gì lắm, nhưng đánh đúng vào tâm lý giới trẻ. Lập tức, người ta ùn ùn kéo nhau đi xem. Và nhạc sĩ viết bản nhạc này, Francis Lai, nổi danh liền khi. Nhạc sĩ Phạm Duy, rất thức thời, viết ngay lời Việt cho nó.  90% các quán cà phê ở miền Nam Việt Nam khi ấy bèn mua ngay đĩa hay băng bản nhạc này phát trong quán để hút khách, (10% còn lại là quán vỉa hè nên không có nhạc). Phim chỉ sôi nổi một dạo rồi chìm khuất. Chỉ có bản nhạc là còn sống rất lâu.

Trước đó là phim The Longest Day, kể về cuộc đổ bộ của quân Đồng Minh lên bãi biển Normandy nước Pháp. Viết nhạc cho phim là nhạc sĩ Maurice Jarre, (ông chuyên viết nhạc cho phim). Âm điệu rất hùng hồn, nghe nhạc , ta có cảm tưởng sẽ là chiến thắng, dù nội dung chưa cho thấy điều đó. Nhưng phim quá hay ( được xem là phim chiến tranh hay nhất mọi thời), làm người ta không nhớ mấy đến nhạc.

Nhưng một phim đề tài chiến tranh mà nhạc phim gây ấn tượng hơn phim là Cầu Sông Kwai (The Bridge on the River Kwai), có cảm tưởng như hành khúc trong phim còn hay hơn cả bản hành khuc  nổi tiếng của Mozart, Hành khúc Thổ nhĩ kỳ (Turkish March). Ai xem phim này cũng sẽ nhớ tiếng huýt sáo bản nhạc hùng tráng ấy. Phim này đoạt đến 7 giải Oscar, trong đó có giải dành cho nhạc phim hay nhất của nhạc sĩ Malcom Arnold.

Thứ đến là phim Dr Zhivago, viết nhạc cũng là Maurice Jarre. Nhạc rất hay, hay hơn phim. Bản nhạc phim này có hẳn tên, Lara’ s Theme. Và đoạt giải Oscar về nhạc phim. Cả nhạc và phim cùng nổi tiếng rất lâu.

Nhớ ngày xưa lúc còn ở Nhatrang có đi xem một phim Việt Nam, tựa là Nắng Chiều, phim do cố tài tử cải lương nổi danh Thanh Nga đóng vai chính. Nhạc đề chính trong phim cũng là bản Nắng Chiều, (hình như của nhạc sĩ Trọng Nguyễn thì phải). Bản nhạc có trước phim, chứ không phải nhạc viết cho phim. Nhạc thì nhớ, vì bản này khá nổi tiếng mà. Còn phim thì không nhớ gì nội dung cả. Chỉ còn nhớ tên phim.

Còn tựa phim có gì mà nói ?

Trước 1975, phim ngoại quốc nhập về Việt Nam thường đặt tựa tíếng Pháp. Phim Mỹ cũng đặt lại tựa theo tiếng Pháp chứ không dịch theo tựa tiếng Mỹ (tức là tiếng Anh).

Chẳng hạn phim cao bồi High Noon, ( Trưa Hè Nóng Bỏng) tựa tiếng Pháp là Le Train Sifflera Trois Fois, tựa tiếng Việt là Còi Tàu Trỗi Nhịp Ba. Nghe rất ấn tượng. Trỗi Nhịp Ba. Hay quá. Phải không ?  Đặt tên phim dựa theo một trong những cảnh quay, tàu vào ga, kéo còi ba lần, không phải, ba nhịp.

Hay phim From Here To Eternity, tựa tiếng Pháp là Tant Qu’ il Aura Des Hommes, tựa tiếng Việt là Phận Người. Phân cảnh hay nhất là cảnh nhân vật chính thổi kèn, hình như là trompet, để thương tiếc người bạn thân của anh vừa qua đời. Tiếng kèn nức nở như xót xa cho thân phận con người.

Khoảng năm 1972, 73, có xem một phim hình như của Pháp hay Ý gì đấy, có tựa nghe rất kêu, Tình Thù Rực Nắng ( Summertime Killer, Meurtres au Soleil). Chuyện phim rất cải lương nên tưởng là phim Hồng Kông.

Cũng khoảng thời gian này, loạt phim quyền, cước của Hồng Kông làm mưa làm gió nhiều rạp phim. Từ phim của Địch Long, Khương Đại Vệ… đến đỉnh điểm là phim của Lý Tiểu Long, với những tựa phim nghe như truyện chưởng của Kim Dung. Chẳng hạn: Đường Sơn đại huynh, Mãnh Long quá giang, Long tranh hổ đấu… làm mê say nhiều thế hệ người Việt chẳng kém nhạc Trịnh Công Sơn chút nào.

 

VÀ CẢM THÁN KHI XEM LẠI PHIM XƯA

 

Cách đây chừng 10 năm, Bác Phi có nhờ tìm và ghi ra dĩa CD vài phim bác ấy thích. Một số là phim cao bồi, vài phim tình cảm…

Có Casabanca, Summer of 42, La Valse dans l’ombre, The River of no return, The Longest Day, Le Train sifflera Trois Fois, Gone With The Wind, The Professionals, Les Sept Mercenaires, The Great Escape…Sau khi gởi ra Nhatrang, bác gọi điện cho biết có rủ anh Đạo, bạn ở gần nhà qua xem cùng và nói là cảm thán vô cùng khi xem lại phim xưa…

Nay thì cả BPhi và anh Đạo đã đi xa…

Nhờ đó mà có dịp xem lại được những bộ phim là kinh điển của thế giới.

Trong các phim nói trên, phim ít nổi tiếng nhất là phim để lại ấn tượng sâu đậm nhất: The Professionals, Những tay chuyên nghiệp.

Nội dung: một tay tài phiệt mướn mấy tay “chuyên nghiệp” giải cứu cô vợ bị bọn khủng bố bắt cóc. Phi vụ thành công, nhưng những tay chuyên nghiệp khám phá ra cô vợ mới chính là người yêu của thủ lĩnh nhóm khủng bố. Họ thả cả hai người, là tay khủng bố và người yêu của anh ta. Đương nhiên hợp đồng đổ bể, mỗi tay chuyên nghiệp mất 10.000 đô la. Tay tài phiệt mạt sát các tay chuyên nghiệp là “Đồ khốn kiếp”. Và đây là câu trả lời của các tay chuyên nghiệp, “Vâng, thưa ông. Trong trường hợp chúng tôi, là chúng tôi cha mẹ sinh sao để vậy. Còn ông, là do chính ông muốn vậy”.

Dòng phim cao bồi thập niên 50-60, thế kỷ XX, coi bộ ăn khách quá, nên mấy nhà sản xuất giao kèo với cô đào lừng danh Marilyn Monroe (nhưng lừng danh không hẳn do tài nghệ) đóng chính trong phim The River of no return, tựa tiếng Việt dịch sát nghĩa nhưng rất hay là Dòng sông không trở lại. Chỉ tựa phim là hay thôi !

Chừng mươi năm sau, Pháp cũng làm giống thế, mướn cô đào nổi tiếng nhất của điện ảnh Phú-lãng-sa, Brigitte Bardot, đóng chính trong bộ phim phiêu lưu mạo hiểm, Viva Maria, Maria muôn năm, (rất tình cờ, xem phim này ở rạp Mini Rex trong những ngày đầu năm 1975).

Phim kể một cô bé lẽo đẽo theo chân cha, là một kháng chiến quân Irlande (Ái nhĩ lan), thường xuyên đặt bom các đồn lính Anh.

Một ngày, người cha tử trận, cô trốn thoát sang Nam Mỹ. Tình cờ gia nhập một gánh hát rong. Trở thành ngôi sao của gánh. Và, cũng do tình cờ, tham gia vào cuộc kháng chiến ở một trong những xứ sở gánh hát đi qua. Cô và cả gánh hát thành những anh hùng.

Nét diễn linh động, và rất có duyên.

Vậy nên, phim đáng xem hơn phim Dòng sông... nhiều lắm.

Cũng có xem một phim của nam tài tử nổi tiếng của Pháp, Alain Delon, đóng cùng một nam tài tử khác nổi tiếng chẳng kém Jean Gabin, phim Deux hommes dans la ville. Cách diễn na ná như Brad Pitt của Mỹ. Nghĩa là hơi kịch, thiếu vẻ chân thực.

Cách diễn này lộ rõ khi đóng cùng Charles Bronson và Toshiro Mifune (nam tài tử Nhật danh tiếng) trong phim cao bồi The Red Sun. Phim này chiếu ở Rex, thiên hạ xếp hàng đi coi nghìn nghịt, khoảng năm 1973.

Nhớ lại đâu chừng mươi, mười lăm năm trước, hàng tuần, kênh HTV7 và kênh VTC1, chiếu lại các phim xưa của Mỹ và nhiều nước khác. Nên tình cờ xem được vài phim hay, theo ý riêng thôi. Như The Devil’s Own (Harrison và Brad Pitt đóng chính), kể tay khủng bố người Ireland trốn truy nã sang New York, tá túc ở nhà viên cảnh sát Mỹ gốc Ireland. Viên cảnh sát là người chính trực, đồng tình với công việc của tay khủng bố nhưng phản đối hành động giết chóc. Cuối phim là cảnh 2 người đối đầu nhau khi cảnh sát phát hiện khủng bố đang tìm mua vũ khí. Không thích Brad Pitt vì cách đóng có vẻ kịch quá, (như ta hay nói tay này đóng kịch hay đang diễn kịch) nhưng trong phim này Pitt đóng hay. Vẫn thích Harrison nhất là trong loạt phim Indiana Jones, nhất là phim Chiếc Rương thánh tích và Cuộc Thập tự chinh cuối cùng…một chút Liêu trai, một chút Tây du ký và một chút Thủy hử...và rất nhiều chất núi rừng Việt Nam, chất Hoàng Ly của những Đại Sơn Vương Thần xạ...

Ngênh ngang một cõi biên thùy,

Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương.

Hay phim Flawless, kể về một vụ đánh cắp kim cương của nhà máy sản xuất kim cương. Vụ đánh cắp vĩ đại mà chỉ do một người phụ nữ tổ chức, dàn dựng… và không ai khám phá ra.

Đàn bà dễ có mấy tay,

Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan.

(Nguyễn Du, Kiều)

Và một phim của đạo diễn lừng danh, Steven Spielberg, Jaws, tựa tiếng Việt, Hàm cá mập.

Bỏ qua các chủ đề khác mà phim muốn nêu ra, cảnh chiến đấu ở cuối phim giữa viên cảnh sát trưởng của Hạt và con cá mập, có lẽ lấy ý từ truyện rất nổi tiếng của Ernest Hemingway, Ông già và biển cả. Cuộc chiến đấu với và mơ ước chiến thắng thiên nhiên. Thế rồi thiên nhiên lấy lại tất cả: trên đường về bến, con cá kiếm khổng lồ mà ông già câu được bị những bầy cá nhỏ khác cấu xé, rúc rỉa hết sạch... bỗng nhiên mà ý niệm của nhà Phật gây ra nỗi niềm man mác cho người đọc và người xem: đời người là vô thường và đầy những khổ đau.

Ở phim Jaws, nhà hải dương học và tay ngư phủ chuyên nghiệp (là hai người được Hạt thuê) bị con cá mập hạ đo ván. Viên cảnh sát mới là người chiến thắng: công lý đã được thực thi.

Có một phim thiếu nhi, dựng theo truyện của Mark Twain, không nhớ là Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer hay Huckleberry Finn. Rất lôi cuốn. Bảo sao mà dân Mỹ khoái phiêu lưu mạo hiểm từ khi còn là nhi đồng.

Khoảng thập niên 90, thế kỷ XX, nổi lên dòng phim dựng theo truyện của nhà văn vốn xuất thân là luật sư, John Grisham. Xem được 2 phim: The Firm, tựa tiếng Việt, Hãng Luật và The Rainmaker, tựa tiếng Việt, Luật sư tài ba.

Tác giả là luật sư nên ông viết truyện hoàn toàn nói về lãnh vực này. Xem phim rồi mới đọc truyện nên chỉ nêu vài nhận xét về phim.

Đạo diễn phim The Rainmaker là Francis Ford Coppola, nhà đạo diễn The Godfather lừng lẫy. Vậy nên cách làm phim The Rainmaker mang dấu ấn của phim hành động. Tình tiết đột ngột, diễn biến bất ngờ. Bất ngờ hơn cả, viên luật sư, chỉ vừa mới tốt nghiệp lại thắng cả một tập đoàn bảo hiểm lớn, với vô số tay luật sư già đời, lọc lõi, đứng sau lưng.

Xạo quá, nhưng ai mà chẳng có sai lầm.

Đạo diễn phim The Firm, là Sydney Pollack, nhiều chi tiết và nhất  là phần kết phim, được sửa đổi, khác hẳn so với truyện. Nên có phần kém hấp dẫn so với phim The Rainmaker.

Chừng mươi, mười lăm năm trở lại, Mỹ và nói chung, điện ảnh thế giới cạn đề tài. Chỉ khai thác chuyện viễn tưởng, anh hùng của vũ trụ nào đó, ở cõi thiên hà nào đó. Toàn là kỹ xảo, công nghệ. Kịch bản nghèo nàn. Đâm chán.

Nếu để chọn chỉ đôi ba phim đưa vào danh sách những kiệt tác điện ảnh của nhân loại, tôi sẽ chọn 2 phim sau:

Đầu tiên là phim Thời đại tân kỳ, Modern Times, 1936, của vua hề Charlie Chaplin. Phim của thời phim câm. Chỉ rất ít diễn viên. Rất ít chuyện để kể. Nhưng ý nghĩa sẽ còn mãi với thời gian. Con người trong mỗi một thời đại, luôn phải đương đầu với cái mới, cái mới của thời đại cơ khí, chẳng khác gì cái mới của kỷ nguyên số. Con người trở thành nô lệ cho chính cái mới.

Xem phim này lần đầu ở rạp xinê Văn Hoa Đakao, năm 1974. Mấy chục năm sau xem lại trên Tivi. Cảm xúc vẫn hệt như lần đầu.

Thứ hai là phim của Nhật, của đạo diễn kỳ tài Kurusawa Akira, phim Lã Sanh Môn, Rashomon, 1950. Là câu chuyện kể của nhiều người khác nhau về cùng một vụ án sát nhân. Mỗi người có góc nhìn riêng, có mục đích riêng khi kể câu chuyện của mình. Phim dựng theo một truyện ngắn mà tựa bản dịch tiếng Việt là Trong Rừng Trúc. Tựa truyện diễn tả đúng cái rối rắm của câu chuyện. Tâm lý phức tạp của mỗi nhân vật được kể trong bối cảnh của khu rừng trúc. Các nhân vật lạc trong đó nên hoang mang, sợ hãi. Truyện ngắn thôi nhưng cách mô tả tâm lý nhân vật và diễn biến có thể sánh ngang với Dostoievsky, bậc thầy về loại tiểu thuyết này, tiêu biểu là bộ Anh em nhà Karamazov.

Trong cuốn sách nổi tiếng nhất của nhà vật lý lý thuyết Stephen Hawkin, “Lược sử thời gian và Vũ trụ trong vỏ hạt dẻ” có đề cập đến một sự việc gần giống thế: trên một chuyến tàu lửa đang chạy, người ở trên tàu và người đứng bên đường, ở cùng một thời điểm, sẽ nhìn cảnh vật khác nhau; ví như người trên tàu nhìn cây cổ thụ bên đường, nhỏ và trôi qua nhanh nhưng người đứng trên đường lại thấy cây to và đứng tại chỗ.

Mỗi con người là một thế giới riêng, phức tạp và lạ kỳ.

Các kiệt tác điện ảnh khác có thể kể thêm:

Casablanca, phim hay cả nhạc và nội dung.

Những khẩu đại pháo thành Navarone, The Guns of Navarone, tôi thấy phim này hay hơn phim The Longest Day, vì nói đến số phận và tính cách con người trong hoàn cảnh chiến tranh.

Và cuối cùng là một phim của đạo diễn kỳ tài Trung quốc, Trương Nghệ Mưu: Đèn lồng đỏ treo cao cao, Raise the Red Lanterns. Phim nói về phận người phụ nữ thời phong kiến. Màu đỏ của đèn lồng, của trang phục, màu xám của mái ngói là 2 màu chủ đạo trong phim tạo nên vẻ bức bối, ngột ngạt như đời người vậy.

Đều là những phim xem trên truyền hình. Cảm xúc gần giống với xem ở rạp, và rất khác với xem trên máy tính hay điện thoại.

 

Cuối năm 2023

NTH


Đăng nhập để gửi phản hồi cho bài viết