KỂ CHUYỆN ĐẦU NĂM
HAI PHONG CÁCH UỐNG RƯỢU
Kim Dung thuật lại vài cách uống rượu của bọn hào sĩ giang hồ, như chén rượu kết giao Kiều Phong với Đoàn Dự, trên Tùng Hạc lâu trong thành Vô Tích, một người uống rượu không biết say, người kia chỉ mượn rượu tiêu sầu nên chưa quá ba chén đã đất trời nghiêng ngửa, sao thành sầu chưa sụp đổ em ơi.
Và bát rượu tuyệt giao Kiều Phong với quần hùng ở Tụ Hiền trang, lắm kẻ vốn là bạn thiết của Kiều Phong nên tay nâng ly mà nước mắt tuôn rơi vì cạn chén là dứt tình bằng hữu. Mà bạn hữu với Kiều Phong thì vô số kể nên chi ông uống không biết bao nhiêu bát. Rượu rồi rượu nữa uống cho say.
Còn phải kể thêm chén rượu hào hùng mà Kiều Phong mang tên mới là Tiêu Phong bày chén uống với hai huynh đệ kết nghĩa là Hư Trúc và Đoàn Dự trước khi đại chiến với quần hùng dưới chân núi Thiếu Thất.
Đến chuyện Tổ Thiên Thu thuyết Lệnh Hồ Xung về các ngón nghề, tỉ như chén sành, bát đàn... như rượu Bồ đào phải rót trong chén Hồ quang, rượu Trúc diệp thanh phải rót trong chén Dương chi Bạch ngọc v.v... nhưng đây chỉ là thuyết suông nên chi Tổ địa thuyết đến đâu, Lệnh Hồ huynh đệ ứa nước miếng đến đó.
Như ly rượu tâm giao Lệnh Hồ Xung với Điền Bá Quang với chỉ hai hũ Thiệu Hưng nữ nhi hồng duy nhất trên đời vì Điền Bá Quang đã vượt ngàn dặm đường vào tận cung vua ở kinh đô Lạc Dương lấy trộm, y còn đập nát hết hàng ngàn hũ trong hầm để bọn vua quan không còn được uống thứ rượu quý này nữa vì trên đời này chỉ còn Điền mỗ với Lệnh Hồ huynh đệ mới xứng đáng được uống nó mà thôi.
Kết tri kỷ như Bá Nha Tử Kỳ cũng không bằng Điền Bá Quang dụng hết tâm cơ lừa thầy trò Hoa sơn phái Nhạc Bất Quần xuống núi đi tìm y, trong khi y vận công gánh 2 hai hũ Thiệu Hưng, đệ nhất mỹ tửu trộm trong cung Tuý tiên lâu, lên Ngọc nữ phong để ung dung đối ẩm với chàng Lệnh Hồ đại hiệp.
Nhưng chén rượu, chiếu rượu hay mâm rượu tùy hứng mà Tiêu Phong uống với hai huynh đệ “kết nghĩa giữa đường” là Đoàn Dự với Hư Trúc đáng gọi là tiệc rượu hay tửu chước ly kỳ và đẫm tính giang hồ nhất trong các bữa rượu Kim Dung tiên sinh thường kể.
Ly kỳ ở chỗ đại ca ca Tiêu Phong là đại nguyên súy của một nước Tây Hạ hùng mạnh, tửu lượng vào hàng thiên hạ vô song, nhị ca ca Đoàn Dự lại là một công tử ưa đọc kinh, ngâm thơ, chăm hoa, mê mệt thần tiên tỉ tỉ, còn là người kế nghiệp ngai vàng nhà nước Đại Lý, không hề và không ưa rượu, tam đệ Hư Trúc vốn là nhà sư vướng luỵ, bang chủ bất đắc dĩ của một bang toàn nữ nhân, Tiêu Dao phái và hẳn là cũng không biết gì đến bồ đào, đến Thiệu Hưng, đến Trúc diệp thanh, đến chén đến chung đến bát. Giữa chốn gươm đao trùng trùng, khí oán cao ngút trời, thì ba vị hô huynh gọi đệ ngang hông lại bày rượu uống với nhau như chốn không người thì quả là trên đời có một, dưới thế không hai. Chỉ mỗi đại ca Tiêu Phong uống hết 16 bì rượu do 18 võ sĩ Khiết Đan mang theo cho chủ nhân. Bì thứ 17 các võ sĩ chia nhau còn bì thứ 18 Hư Trúc nhắp không quá hai lần số ít còn lại thì Đoàn Dư vận Lục mạch thần kiếm biến rượu thành hơi tỏa ra ngón út hết trơn.
Có hề chi. Vẫn là hầu rượu với đại ca mà.
Trước đó rất lâu, Nguyễn Tuân cũng kể những phong cách uống rượu của các cụ ngày xưa trong Vang Bóng Một Thời.
Hai phong cách tiêu biểu là tiêu sái, nho nhã trong Hương Cuội và ngang tàng đầy vẻ bặm trợn trong Ném Bút Chì.
Hóa ra đâu nhất thiết phải thế này hay thế kia.
Giới nào có phong thái riêng của giới đó.
Trước khi uống phải để bụng rỗng lòng không, và chỉ dùng đồ ngọt như các cụ nhà nho trong Hương Cuội.
Thế rồi trong cái vườn cây nhỏ, trong đám cỏ cây xanh rờn, những buổi sớm tinh mơ, và những buổi chiều tàn nắng...
Cậu đừng nói như thế, cụ nghe thấy cụ mắng. Cậu không nên nói tới chữ xót ruột. Chính cụ nhà có giảng cho tôi nghe rằng những cụ sành uống rượu, trước khi vào bàn rượu không ăn uống gì cả. Các cụ thường uống vào lúc thanh tâm. Và trong lúc vui chén, tịnh không dùng những đồ nhắm mặn như thịt cá đâu...
Vò rượu vợi với chiều xuân sớm quên đi.
Và chỉ có món mặn, thịt phải thái dầy, mâm phải đầy tú hụ, phải hàng chục chai rượu ngang, phải tu ừng ực, phải nhồm nhoàn đầy mồm... thì mới Ở đời muôn sự của chung, Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.
Vò rượu vợi với chiều xuân sớm quên đi.
Cụ Kép làng Mọc, với vò rượu Thạch Lan Hương, đẫm hương lan trong hương mạch nha, kết thành Hương Cuội.
Lý Văn, đầu đảng, đang chuẩn bị cho một tiếng bạc, tiếng lóng của giới giang hồ chỉ một vụ đánh cướp, tất bật sửa soạn mâm rượu đầy thịt thủ thái dối, với chục chai rượu mua ở quán đầu làng, lại không thiếu tư chất của một bậc tôn trưởng của một tôn sư võ học như Trương Tam Phong của Võ Đang phái. Rành rẽ từ lối đánh bút chì bằng lưỡi mai (Ngón bút chì của chú hay đấy. Nhưng cũng còn nặng tay. Chưa được ngọt đòn lắm) đến cách đánh bơi chèo bằng gỗ cau...hệt như Trương Tam Phong đang rèn kiếm Thái Cực cho Trương Vô Kỵ, phải biến hóa như hai vòng Âm Dương hoà lẫn đến mức không còn phân biệt.
Cũng trái ngược như nước với lửa, như ngày và đêm... là hai nhà sư trong Những Chiếc Ấm Đất, sư cụ chùa Đồi Mai, (Vang Bóng Một Thời) và sư ông Tâm Hoan, chùa Giải Oan, trong Khói Thuốc Trên Núi Yên Tử, (Tàn Đèn Dầu Lạc, cũng của Nguyễn Tuân).
Chùa Đồi Mai vốn ở xa làng mạc và biệt lập trên một khu đồi nên ít bị phiền nhiễu bởi bọn tạp khách.
Buổi tịch dương đứng ở mái chùa Giải Oan nhìn xuống cảnh ở chân núi lởm chởm buồn như một buổi chiều của người nghiện thiếu thuốc từ sớm mai.
Thỉnh thoảng khi ông cụ Sáu đến chơi chùa, hai ông già lại kéo nhau ra giếng nước đứng chuyện vãn rất lâu. Nhưng nhà sư thì ít nhời, thường trầm tĩnh ngắm bóng mình trong lòng đáy giếng sâu. Cái bóng nhà sư già ít khi đậu hình được cho lâu trên phiến gương nước giếng mát lạnh...
Đó là một nhà sư già trụ trì ở một ngôi chùa vắng bóng tạp khách. Ông cụ Sáu là một trong số ít tri kỷ của nhà chùa. Lần nào đến, ông cũng được sư cụ giữ lại ăn một bữa cơm chay và lần nào từ biệt cũng được chân thành tặng một giò Chu Mặc Lan.
Ngẫu qua trúc viện phùng tăng thoại
Hựu thế phù sinh bán nhật nhàn
(Lý Thiệp – Đăng Sơn)
Hầu chuyện nhà sư trong viện trúc
Nửa ngày chợt nhẹ kiếp phù sinh
Chùa Giải Oan mãi trên đỉnh Yên Tử, nhưng không hề vắng khách thập phương. Hết tháng Ba, hết trẩy hội chùa mới vãn khách.
Ông Ph. Đ. thủ lễ đứng dậy và xin phép nhà chùa để ăn thuốc.
Bạch cụ, như thế này là thập phương rất lấy làm không phải với nhà chùa.
Tâm Hoan hoà thượng cười xòa;
Có việc gì xin đạo quan cứ tự nhiên cho thì hơn. Bần tăng cũng thế. Ai cấm. Tháng trước quan tuần thượng sơn hành hạt, ngài có hỏi, bần tăng cũng có thú thực với ngài rằng có hút, vì ở trên này lam sơn chướng khí nhiều lắm, một chút bồ đề tâm khó mà an toàn được.
...
Ngờ đến lòng sư cụ đây đã phải tàn nhẫn bóc lột Phật tổ, sẻ rất nhiều của, của nhà chùa cho được đủ hút...
...
Tôi hãy biết thế và nghe cái ông sư Tâm Hoan kể rặt chuyện phá giới:
Quan tuần phủ tháng trước lên đây, đi đủ 60 người, 5 cáng, đem một con dê lên giết ở đây. Ngài có ép bọn tôi ăn thịt dê, đợi cho ăn mặn xong đâu đấy rồi, ngài mới quở tàn tệ.
Ở đây xa chợ búa, ăn mãi măng trúc, măng mai, nó cũng nhạt mồm. Thỉnh thoảng phải cho bà hộ hạ sơn kiếm con cá miếng thịt về... Thiên hạ sát sinh... chứ mình có sát đâu...
Dù cho quyết chí tu hành
Có về Yên Tử mới đành lòng tu
(Đề từ chương cuối của Tàn Đèn Dầu Lạc _ Khói thuốc trên dãy núi Yên Tử)
Nhân vật Lỗ Trí Thâm trong Lương Sơn Bạc cũng không bằng sư ông Tâm Hoan này.
Và càng khác với một nhân vật nửa thực nửa hư, Phạm Thái tức Phổ Chiêu thiền sư tức Chiêu Lỳ, một đời thực được nhà văn Khái Hưng tiểu thuyết hóa thành Tiêu Sơn tráng sĩ.
Đây là nửa thực của ông:
Đèn mờ khôn tỏ bóng,
Nguyệt khuyết mái tây hiên.
Xa xa rền tiếng trống,
Lồng lộng chốn binh điền.
(Trời Đông nghe trống đánh)
Còn đây là nửa hư, khi người yêu Trương Quỳnh Như đã mất, khi lý tưởng phục hồi nhà Lê đã tan:
Một năm mười hai tháng,
Một tháng ba mươi ngày.
Hũ lớn cạn, hũ bé cạn,
- Say!...
Một bài khác:
Sống ở dương gian đánh chén nhè,
Chết về âm phủ cắp kè kè.
Diêm Vương phán hỏi rằng chi đó?
- Be!...
Cái vẻ ngang tàng xếp lại, chỉ còn cái uất ức trước thời thế và bất mãn với cuộc đời.
NON THIÊNG YÊN TỬ VÀ THIỀN PHÁI TRÚC LÂM
Vua con Trần Anh Tông đi đón vua cha Trần Thái Tông. Trích đoạn Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ
Phật hoàng Trần Nhân Tông, trích đoạn Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ
Phật hoàng Trần Nhân Tông, trích đoạn Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ
Chất chứa nhiều nỗi khổ, lòng ray rức bất an, một đêm tháng tư năm 1236, vua Trần Thái Tông bỏ ngai vàng, trốn triều đình lên núi Yên Tử đi tu.
Trèo núi hiểm, lội khe sâu, lên đỉnh Yên Tử tham kiến Thiền sư Trúc Lâm. Sư vui mừng bảo:
Lão tăng ở chốn sơn dã đã lâu, xương cứng mặt gầy, ăn rau răm, nhai hạt dẻ, uống nước suối, vui cảnh núi rừng đã quen, lòng nhẹ như đám mây nổi, cho nên mới theo gió mà đến đây. Nay bệ hạ bỏ địa vị nhân chủ mà nghĩ đến cảnh quê mùa rừng núi, hẳn là muốn tìm cầu gì ở đây cho nên mới đến, phải không? - Trẫm nghe lời thầy hỏi, hai hàng nước mắt ứa ra, liền thưa với thầy rằng: Trẫm còn thơ ấu, đã sớm mất mẹ cha, trơ vơ đứng trên sĩ dân, không có nơi nào để nương tựa. Lại nghĩ rằng sự nghiệp đế vương đời trước hưng phế bất thường, cho nên mới vào đây, chỉ muốn cầu thành Phật, chứ chẳng muốn tìm gì khác. Thầy đáp: Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm lắng lặng trí tuệ xuất hiện, đó chính là Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần đi tìm cực khổ ở bên ngoài"
(Bài tựa sách Thiền Tông Chỉ Nam).
Đó rồi, thiền phái Trúc Lâm hình thành với tư tưởng ”cư trần lạc đạo” (sống đời vui đạo) nổi tiếng.
(Nghe theo lời khuyên của Thiền sư, vua Thái Tông quay về tiếp tục trị vì, đưa đất nước thái bình thịnh trị).
Không biết vì sao từ một nơi nổi tiếng linh thiêng như Yên Tử mà nhà văn Nguyễn Tuân lại khắc họa ra sư ông Tâm Hoan, một ông sư lầm đường trong chốn thiền môn.
Những nhân vật trong Vang và Bóng của Một Thời (tên chuyên mục trên tạp chí Tao Đàn, sau thành tên sách), là những hoài niệm như những bài thơ Đường gọt dũa kỳ công về thời đã qua. Khác rất xa với các nhân vật trần trụi trong thiên phóng sự Tàn Đèn Dầu Lạc.
Hãy thử đọc lại đôi dòng:
VANG BÓNG MỘT THỜI
Một Cảnh Thu Muộn:
Mẩu nến của những kỳ giỗ xa xôi còn lại, vẫn chưa mất hết hẳn những giọt nước mắt sáp của những ngày hương đèn năm trước.
Chén Trà Trong Sương Sớm:
Đêm đông dài không cùng. Nó mênh mông và tự hết rất chậm chạp.
Gió bấc thổi qua những kẽ cánh cửa bức bàn đã gửi vào nơi yên lặng này mươi lăm tiếng gà không nhẫn nhục được với tối tăm.
NGÔI MẢ CŨ
Hai cái sừng trăng đã nở to, đã đầy đặn. Rồi vầng trăng tròn vẽ lên trời, lần thì cái quầng, lần thì cái tán. Thế rồi nó khuyết ở đầu ngọn tre, những lúc gió sớm giục canh gà gọi nước bể dâng lên.
HƯƠNG CUỘI
Thế rồi trong cái vườn cây nhỏ, trong đám cỏ cây xanh rờn, những buổi sớm tinh mơ, và những buổi chiều tàn nắng...
Cậu đừng nói như thế, cụ nghe thấy cụ mắng. Cậu không nên nói tới chữ xót ruột. Chính cụ nhà có giảng cho tôi nghe rằng những cụ sành uống rượu, trước khi vào bàn rượu không ăn uống gì cả. Các cụ thường uống vào lúc thanh tâm. Và trong lúc vui chén, tịnh không dùng những đồ nhắm mặn như thịt cá đâu...
Vò rượu vợi với chiều xuân sớm quên đi.
NÉM BÚT CHÌ
Cả bọn kéo lên giường sau khi rửa chân cạn, hai bàn chân bẩn vỗ vào nhau mươi lượt...
Trong số mười chai rượu thì đến bốn năm cái đã là vỏ thủy tinh không. Chiếc mâm đồng thước rưỡi có lót lá chuối tươi, đựng thịt thủ thái dối đầy tú hụ lên thế, lòng mâm thịt đã vợi đến một phần ba...
Cả bọn lại đều một loạt đánh ngã vài chai lớn nữa. Rồi trong cái không khí ồn ào, người ta ồn ào đọc đi đọc lại cái câu: “Ở đời muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.”
Từ cụ Kép làng Mọc, ông cụ Sáu người bạn tâm giao của sư cụ chùa Đồi Mai, đến chàng Cử nhân lỡ thời con cụ Thượng Nam Ninh, là điển hình cho cái đẹp, cái duy mỹ trong bản sắc dân tộc đã dần tàn phai trước làn sóng văn minh phương Tây mà người Pháp mang sang. Nên mới nẩy ra sư ông Tâm Hoan, được vẽ bằng nét bút tàn nhẫn như chưa từng có.
Cái ẩn ý của nhà văn là ở đó chăng ?
Tháng 2.2025
NTH
-
ĐỀN BÀ KIỆU VÀ ĐẠO MẪU Ở VIỆT NAM< Trang trước
-
MÌ QUẢNG, TUYỆT CHIÊU CỦA MÁTrang sau >