TRANH THỦY MẶC
TRUNG QUỐC VÀ NHẬT
Khổng tử nói: “Yêu thích một điều gì đó thì tốt hơn là biết về nó, nhưng vui với một điều gì đó thì tốt hơn là yêu nó”.
Đại khái là hãy yêu, hãy vui với một cái gì đó mà không cần hiểu về nó.
Vậy nên, không cần tìm hiểu sâu làm gì, cứ xem, cứ thưởng thức cái thô phác, kỳ vĩ hay cái đơn sơ, tế vi của tranh thủy mặc qua một số sưu tập của Bảo tàng mỹ thuật Metropolitan.
TRANH TRUNG QUỐC
Chủ đề tranh thủy mặc thường gói trong một số đề tài sau: cái vô cùng; thần linh, hiền nhân và sự chết; trữ tình; ái quốc và mộng mơ; trở về quá khứ; biểu tượng đạo đức; những đổi thay của tạo hóa…
VÔ CÙNG
Tên: Ven sông
Tác giả: có thể là Tung Yüan, mất 962
Tranh cuộn, mực và màu nhạt trên lụa
Sưu tập của Gia đình CC Wang, New York
THẦN LINH, HIỀN NHÂN VÀ SỰ CHẾT
Tán dương cái chốt
Cảnh 4, “Những cái trục gãy” _ Chi tiết
Tranh chân dung thời Tống (960 – 1279)
TRỮ TÌNH
Trong album Lá thời Nam Tống (1127 – 1279)
Ngắm nai uống nước bên suối rợp bóng tùng
Tác giả: Ma Yüan, khoảng 1190 – 1225
Mực và màu trên lụa
Sưu tập Ông Bà A Dean Perry, Cleveland
ÁI QUỐC VÀ MỘNG MƠ
Tranh chân dung triều Nguyên (1279 – 1368)
Cửu ca của Ch’ü Yüan. Có thể là tranh của Chang Tun-li. “Quận chúa và hoàng phi trên sông Dương tử”. Trích đoạn tranh cuộn, màu trên lụa. Bảo tàng Mỹ nghệ, Boston.
TRỞ VỀ QUÁ KHỨ
Ngư phủ về nhà, T’ang Ti, khoảng 1296 – 1367, tranh cuộn để treo, mực và màu trên lụa, Bảo tàng mỹ thuật Metropolitan
BIỂU TƯỢNG CỦA ĐẠO ĐỨC
Cây, tre và đá, thời Nguyên
Đức cao vươn tới trời xanh, Wu Chen, 1280 – 1354, tranh cuộn treo, mực trên lụa, sưu tập gia đình CC Wang, New York
TRỜI ĐẤT ĐỔI THAY
Tranh phong cảnh cuối thời Nguyên
Trích đoạn bức Núi mây, Fang Ts’ung-I, sau 1378, tranh cuộn, mực và màu trên giấy, Bảo tàng mỹ thuật Metropolitan
(Trích Along the border of heaven , Sung and Yuan Paintings from the CC Wang Family Collections, Metropolitan Museum of Art, 1983)
CÁC CHỦ ĐỀ KHÁC
Núi mùa hạ, tranh cuộn, mực và màu nhạt trên lụa, 45,1 x 114,9 cm, Quỹ Dillon tặng, 1973
Có thể là tranh của Ch’ü Ting, Trung quốc, khoảng 1025 – 56
Phong cách tranh phong cảnh hùng vĩ xuất hiện vào khoảng nửa đầu thế kỷ thứ 10, đạt tới đỉnh điểm khoảng giữa thế kỷ 11 vào triều Nam Tống. Bức Núi mùa hạ miêu tả sự kỳ vĩ và phức tạp của thế giới tự nhiên và tổng thể là hoà nhập vào với tạo hóa. Những chóp núi ngự trị và chi phối mọi hoạt động dọc con sông trong buổi chiều mùa hạ. Nhịp điệp vươn lên, đổ xuống của các ngọn núi tô điểm bởi các hẽm vực, nơi mà các ngôi đền và thác nước nửa ẩn nửa hiện trong sương mù. Cây cối rậm rạp trong ngôi làng bên bến sông, đình trạm, nơi khách du và ngư phủ dừng chân, xem lại thành quả ngày làm việc, nghỉ ngơi hay đưa hàng ra bến. Trải ra trên hàng dặm, kết nối tất cả, từ những dãy núi trùng điệp đến những con suối cạn khô mùa hạ, miêu tả tỉ mỉ cả các cột buồm, dây buộc. Các chi tiết nhỏ không làm mất đi sự vĩ đại là thành tựu không thể vượt qua của hội họa phong cảnh thời Nam Tống.
Ảnh: Masterpieces of the Metropolitan Museum of Art, 1993
Núi mùa hạ, tranh cuộn trên lụa, trước đây người ta cho tác giả là Yen Wen-kuei, còn giờ lại là Ch’u Ting. Khoảng 1050. Bảo tàng mỹ thuật Metropolitan
Chi tiết
Thuyền câu trên sông thu. Tranh cuộn trên lụa, có thể là của Hsü Tao-ning. Khoảng 1065. Phòng tranh Nelson-Atkins, Kansas
Chi tiết
Bầu trời trong mùa thu trên suối và núi. Tranh cuộn trên lụa, tác giả là môn đồ của Kuo Hsi. Khoảng 1100. Phòng tranh Freer, Washington D.C.
Chi tiết
Ảnh: Summer Mountains, The Timeless Landscape
The Metropolitan Museum of Art, 1975
TRANH NHẬT
Lịch sử văn hóa Nhật bản như những làn sóng xô bờ nhấn nhá lúc mạnh lúc yếu giống như những giao tiếp đứt đoạn với con người bên kia bờ biển.
Trong khi biển Nhật bản và Trung hoa bảo vệ họ khỏi những cuộc xâm lăng thì có lúc, nó cũng chận đứng luôn sự xâm nhập của những nền văn minh tiên tiến hơn từ lục địa. Những tư tưởng mới đưa người Nhật đến những mục tiêu cao xa hơn, nhưng nước Nhật chưa bao giờ bị một nền văn hóa ngoại lai nào thống trị. Những thời kỳ vay mượn tiếp liền những đợt rút lui, trong khi người Nhật, hài lòng rúc trong cái tổ kén êm ái trong quần đảo của mình, đồng hóa những gì học được từ ngoại bang, biến cải nó cho hợp với môi trường tự nhiên của họ với tâm hồn rung cảm kỳ lạ. Nổi lên từ những thế lực phong kiến từ thế kỷ thứ 9, người Nhật bằng sự khéo léo khó tin, đã sửa đổi kỹ thuật Tây phương với nền văn hóa của riêng họ cho thích hợp với nhu cầu quốc gia.
Có 3 làn sóng ảnh hưởng từ lục địa đã định hình nên lịch sử nghệ thuật của Nhật bản. Thứ nhất là Phật giáo du nhập từ thế kỷ thứ 6. Thứ hai, Thiền học gia nhập từ thế 13, cùng với đó là kỹ thuật dùng mực đơn sắc trong hội họa. Và cuối cùng, dưới thời Edo, là sự đồng hóa nhanh chóng quan niệm hội họa mang tính học thức.
Tre trong mưa
Triều đại Edo, Gion Nankai (1676 – 1751), tranh cuộn, mực trên giấy, 131,8 x 58cm
Cảnh thác theo phong cách Li T’ang
Triều Edo, Tani Bunchō, 1763 – 1840, tranh cuộn, mực trên lụa, 126,2 x 59,2 cm
Núi là vị anh hùng, mây dầy.
Cây già, gió và sương hung hiểm
Beisanjin
Mưa bão ở làng ven sông
Triều Edo, Tanomura Chikuden (1777 – 1835), tranh cuộn, mực và màu nhạt trên giấy, 132, 3 x 42,2 cm
Phong cảnh phong cách Hsia Kuei
Triều đại Muromachi, có thể tác giả là Shūbun (khoảng 1460), bình phong 6 tấm, mực và màu nhạt trên giấy, 274,8 x 153,9 cm
Chi tiết
(Trích Japanese Art, Selection from the Mary and Jackson Burke Collection _ Miyeko Murase _ The Metropolitan Museum of Art, 1975)
Tháng 2.2024
NTH
-
TỪ ĐẠO TỚI ĐỜI< Trang trước
-
QUÂN VƯƠNG VÀ BINH PHÁPTrang sau >