NHỮNG TAY GIANG HỒ LẪY LỪNG Ở SÀI GÒN THẾ KỶ XIX-XX
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha
(Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu)
Lò cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.
(Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều)
Giang Hồ, nghĩa hẹp chỉ (sông) Trường Giang và Động Đình Hồ, nghĩa rộng chỉ xã hội, thế gian, và một nghĩa khác, trong các tiểu thuyết võ hiệp kỳ tình, chỉ giới võ lâm. Bây giờ thường được hiểu là xã hội đen, thế giới ngầm…
Giang hồ trong xã hội Tây , Tàu đều có vài nhân vật được truyền tụng. Ví như Robin Hood bên xứ Ănglê hay 108 anh hùng Lương Sơn Bạc bên Tàu với hai nhân vật Võ Tòng (đả hổ) và nhà sư (hổ mang) Lỗ Trí Thâm ảnh hưởng rất lớn đến cả văn học và đời thực. Việt Nam ta cũng có đấy, nhưng chỉ là nhân vật tiểu thuyết hay thơ ca như nhà sư bất đắc chí Chiêu Lỳ hay Tiêu Sơn tráng sĩ của nhà văn Khái Hưng, nhưng tiếc thay chỉ nổi tiếng trong giới giang hồ với câu nói sặc men rượu đẫm men tình “than ôi ! chí nhớn trong thiên hạ không đong đầy đôi con mắt mỹ nhân” ; Đại Sơn Vương Thần xạ trong tiểu thuyết Một thời ngang dọc của Hoàng Ly và đặc biệt là chàng Lục Vân Tiên hào huê phong nhã của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, dù chàng xuất thân là nho sinh sau thành trọng thần của triều đình, nhưng hành động cứu mỹ nhân với câu thơ trứ danh “giữa đàng thấy chuyện bất bằng chẳng tha” đã trở thành câu nói cửa miệng của dân giang hồ Nam bộ.
Trong một xã hội phong kiến, nặng tính tôn ti trật tự, thấm đẫm giáo điều Khổng Mạnh, ở Việt Nam thời Trung cổ (từ thời Hậu Lê về sau) các nhân vật giang hồ, bị coi là những kẻ sống bên lề xã hội, nên không hề được nói đến. Cho mãi đến khi Pháp sang, định kiến dần thay đổi. Báo chí và dư luận đã đề cập đến giới này. Và nhờ đó, chúng ta mới biết đến đôi chút.
Trong số vài nhân vật giang hồ Nam bộ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, Ông Tư Mắt và cậu Hai Miêng được nói đến nhiều nhất.
CẬU HAI MIÊNG
Cậu Hai Miêng, lúc nhỏ
Học giả Vương Hồng Sển viết về cậu Hai Miêng (trích Sài Gòn năm xưa, phần thứ sáu, nhân vật bản xứ hồi Tây mới qua)
(Nhiều tài liệu viết về nhân vật này đều ghi “Miên”. Chỉ riêng học giả VHS viết “Miêng”. Ở đây ghi theo cách viết của học giả VHS)
“Nhân vật thứ ba, kịch liệt nhứt thời, là Huỳnh Công Tấn
Người tỉnh Gò Công, nay còn thạch trụ trước chợ bêu danh. Ban đầu chống Pháp, sau về làng dâng lễ ra mắt bằng cách bắn gãy xương sống ông Lãnh binh Trương Công Định. Páp ghi công cất nhắc lên Lãnh binh tân trào.
Khi lâm chung ông Tôn Thọ Tườntg điếu:
‘Phúc quới thị thảng lai, oanh liệt hùng tâm khinh nhứt trịch
Thinh danh ưng bất hủ, ức dương công luận phú thiên thu’
(Giàu sang ấy thoáng qua, lừng lẫy hùng tâm khinh một ném, Tiếng tăm đành chẳng mục, chê khen công luận phú ngàn năm)
Con trai là Huỳnh Công Miêng, du học bên Pháp, về xứ lúc đầu theo Phủ Trần Bá Lộc, đánh với giặc “Văn Thân” ngoài Thuận Khánh. Sau này nghĩ sao không rõ mà không nhận chức gì, chỉ ngao du ăn xài theo bực công tử. Đi khắp Lục tỉnh, ưa đánh lộn, bênh vực người mắc nạn , hết tiền vô quan Tây “mượn xài”. Quan nể tình cũ ông cha, hằng trợ giúp và dầu phạm pháp cũng không bắt tội. Khi chết được đời nhắc tên trong “vè Cậu Hai Miêng”, với danh từ ngộ nghĩnh “lưu linh miễn tử”. Chí ngày nay, ông già bà cả, gặp ai hành động ngang tàng, mà không bị tội, ưa nói: “ bộ thằng đó là lưu linh miễn tử hay sao mà!”
Thật trớ trêu, một tay giang hồ miễn tử mà có thời gian gọi là ba nhe hay ma cà bông (panier, vagabond theo VHS), hay dân anh chị, lại là con trai Huỳnh Tấn hay Huỳnh Công Tấn, tay sai thực dân Pháp, kẻ thù của phong trào kháng chiến chống Pháp thời kỳ đầu.
Được cha cho đi du học Pháp nhưng không học được gì, được cái rành tiếng Pháp nên khi về nước, Pháp cho làm thông ngôn rồi thăng tri huyện. Sau cho theo giúp việc Trần Bá Lộc ra Khánh Hoà, Bình Định đánh phá nghĩa quân Mai Xuân Thưởng. Những hành động tàn ác của Trần Bá Lộc khiến cậu Hai bất mãn chán ngán. Cậu bỏ việc quay về nam, sống lang bạt kỳ hồ. Được người dân gán cho biệt danh “lưu linh miễn tử”, bởi cậu được miễn sưu thuế, hết tiền xài cứ việc đến kho bạc lấy, dĩ nhiên Pháp chỉ cho có chừng, nhưng chỉ thế thôi cũng đủ vang danh.
Thừa hưởng gia tài đồ sộ của cha, cậu tiêu tiền như rác, đá gà, uống rượu, hốt me. Điều khiến cậu được người dân cảm mến vì tính khí hào hiệp, giữa đường thấy chuyện bắt bằng chẳng tha. Vì như bao tay giang hồ khác, cậu thích võ nghệ, luyện cung kiếm, đấm đá ra gì. Không có võ nghệ thì chẳng tha với ai.
Vài giai thoại về cậu:
Cuối thế kỷ 19, người Nam Kỳ trong các hội hè thường kể nhiều giai thoại về cậu Hai Miêng, trong đó có chuyện Pháp cho đào ao giữa trường đua ngựa bắt dân phu tỉnh Gò Công phục dịch. Một lần Hai Miêng đi ngang qua đã nổi nóng khi thấy dân phu làm việc nặng nhọc còn bị đánh. Cậu xông vào nắm đầu tên cai mã tà đấm đá, những tên còn lại đều bị bạt tai. Nhóm này bị công tử giang hồ bắt đội đất thay dân chạy lên chạy xuống. Sẵn roi, cậu thẳng tay quất, dân phu Gò Công được dịp hả hê. Từ đó họ bớt bị hà hiếp.
Ở Bạc Liêu thời ấy dân chúng rất ngán hai địa chủ tên Thời và Vận. Trong đó, ông Thời có con gái tên Hai Sáng rất hung ác, xem dân như cỏ rác nên không ai dám nói đụng đến tên cô. Các từ "buổi sáng", "hồi sáng mai" đều phải đổi sang "buổi sớm", "sớm mơi"... Hay chuyện, một lần đi thuyền ngang nhà địa chủ Thời, cậu Hai Miêng tức khí bắt cô Hai Sáng trói trên cột buồm. Nghe danh cậu Hai, ông Thời phải lần mò xuống thuyền xin tha và chuộc con gái bằng cả bao tiền. Từ đó, cả ông này và chủ Vận đều bớt hống hách với dân làng.
Ngay cả với người Pháp, Hai Miêng cũng ương ngạnh, không khuất phục. Những lúc túng tiền cậu ghé dinh tham biện, chủ tỉnh "mượn đỡ" để xài. Nể tình cha cậu, các quan Tây cũng giúp đỡ ít nhiều, có người thành quen nên khi thấy mặt cậu Hai, bảo: "Tiền dưới kho cậu xuống mà lấy".
Khác với cha, cậu Hai Miêng ăn ở rất rộng rãi với mọi người, hay chia sẻ tiền của với anh em, bè bạn và những kẻ dưới tay. Vì điều này, du côn khắp xứ đều kiêng nể, kính phục, cậu tới đâu cũng được dân ủng hộ, thương mến.
Tại Gò Công và vùng Sài Gòn Chợ Lớn, nhiều thơ và bài vè về Hai Miêng xuất hiện và lưu truyền khá phổ biến. Dân gian coi gã giang hồ ngang dọc đầy khí khái là hình tượng tự do tự tại mà người dân hướng đến giữa thời buổi nhiễu nhương. "Nam Kỳ có cậu Hai Miêng, con quan lớn Tấn ở miền Gò Công. Cậu Hai là bực anh hùng, ăn chơi đúng bực anh hùng liệt oanh! Nam Kỳ lục tỉnh nổi danh…"
Truyện thơ Cậu Hai Miên xuất bản năm 1934 tại Sài Gòn
Đình Nhơn Hòa, nơi thờ tự gã giang hồ Hai Miêng. Ảnh: S.H
Cuộc đời lừng lẫy giang hồ, lấy bài bạc làm tiêu khiển nhưng cuộc đời Hai Miêng cũng kết thúc vì nó. Năm 1899, cậu Hai đánh bài với giang hồ Kèo Vàng (người Hoa) ở bến Bình Đông. Bị thua khá nhiều, cậu Hai cay cú đập bàn đòi lại tiền. Một cuộc "tả lùi thùi" (đả lôi đài) không công bằng xảy ra sau đó khiến công tử giỏi võ và có "kim bài miễn tử" bị chục người đánh tơi tả.
Bị ném ra đường, Hai Miêng "dính" thêm trận phục kích của 40 tay đâm thuê chém mướn do "cô Hai Sáng" từ Bạc Liêu thuê để trả thù. Chúng sẵn dao xắt chuối tập kích khiến cậu Hai Miêng phải bỏ mạng - chấm dứt cuộc đời khảng khái, đầy giai thoại ở tuổi 38.
Dân khu vực quanh vùng Cầu Muối vì tôn kính gã giang hồ trượng nghĩa đã đưa bài vị cậu vào thờ cúng ngay trong ngôi đình của làng. Hình tượng Hai Miêng cũng là khởi đầu cho tính cách người Sài Gòn hào hiệp, sẵn lòng giúp đỡ người khốn khó.
(Sơn Hòa, Gã giang hồ có 'kim bài miễn tử' được thờ ở Sài Gòn – VnExpress)
TƯ MẮT
Cụ VHS viết về Tư Mắt (sđd)
“Giới người bất đắc chí trổ sanh nghề lạ thì trước có Tư Mắt, sau có thầy Sáu Ng.
“Tư Mắt, tên thiệt là Nguyễn Văn Trước, sinh tiền có lập một tiệm hớt tóc, số nhà 200 đường Thủy Bình cũ (trước 1975 là đường Đồng Khánh, Sài Gòn), lấy hiệu là "Nam Hữu Mai".
Ngày mười bốn tháng 5 năm 1915, Toà đem Tư Mắt ra xử, kể lai lịch Tư Mắt có đến ba vợ, đều phục sự "Anh Tư" hết lòng, và vô số anh em.
Tòa khép Tư Mắt vào tội "gia nhập hội kín ám trợ Cường Để", kêu án lấy chừng, kỳ trung Tư Mắt bắt chước theo Đơn Hùng Tín trong truyện Thuyết Đường. Phàm trong đám du côn đứa nào đã chịu làm em nuôi của "Đại Ca Tư Mắt" thì Đại Ca không khi nào bỏ, "hoạn nạn tương cứu, sanh bất tử ly", không tiền thì Đại Ca cho tiền, không áo, Đại Ca cho áo, thậm chí khi bị tù rạc thì có người nuôi ăn và cung cấp thuốc, bánh. Nhưng khi nào Đại Ca cần dùng ra lịnh thì phải tuân hành, chết sống không kể thân, sai biểu chém ai, giết ai là chém bất luận bà con thân thích.
Tư Mắt đi đến tỉnh nào xứ nào là em út rần rần, đứa theo ủng hộ, đứa đến trình diện bái nghinh Đại Ca. Tư Mắt bước vào quán nước nào thì người khác hội nên lui chân, hàng em út tha hồ gọi bánh gọi mì vì đã có Đại Ca bao trả. Nhưng phải nhớ "ăn của anh Tư thì sau nầy có việc chớ khá so đo cùng anh Tư"!
Lính tráng kiêng dè nể mặt, cò bót miệng ngậm sáp cũng làm lơ. Lịnh sai nã trốc đã ra mà tìm không có ai dám ra tay sanh cầm Tư Mắt, không khéo có ngày mang thẹo, ăn dao của hàng em út anh Tư.
Tuy vậy hết hồi vinh quang đến hồi xuống dốc. Về sau Tư Mắt ăn năn vào chùa Giác Lâm Chợ Lớn lần chuỗi bồ đề tụng kinh sám hối.”
Goerges Coulet (Tiến sĩ văn chương, dạy ở trường Pétrus Ký Sài Gòn) viết về cuộc biến loạn của Tư Mắt như sau:
(trích Hội kín xứ Annam, Les Sociétès Secrètes en terre d’Annam, xb lần đầu 1926, Nguyễn Thanh Xuân và Phan Tín Dụng dịch, nxb Hội Nhà văn, 2019)
“Đêm 24, 25, tháng 2 năm 2016, vào khoảng 3 giờ sáng, giữa chợ Cầu Ông Lãnh và Cột cờ Thủ Ngữ ở Sài Gòn, một đoàn tàu thuyền chở khoảng 300 người, tất cả đều mặc đồng phục với quần trắng, áo khoác đen, khăn tay trắng quấn trên đầu, được trang bị giáo, gươm và mã tấu. Họ dự định chiếm dinh thự của Thống đốc và Khám Lớn, giải cứu Phan Xích Long, anh hùng của vụ việc năm 1913, bị kết án khổ sai chung thân và Tư Mắt (tên thật là Nguyễn Văn Trước bị toà án Pháp kết án 5 năm tù. Tiếp đến họ phá hoại trạm điện trung tâm, làm nổ tung kho thuốc súng và tàn sát tất cả người Pháp.
Nhóm này chạm trán, tấn công tiếp một đội tuần tra cảnh sát và làm các nhân viên bị thương (hai người bị giết bởi các phát súng lục của đội này cùng với một người Âu trong xe hơi bị thương.
Trước Khám Lớn, lính canh bị giết, một trung sĩ, trưởng đồn và hai lính canh bị thương. Tuy nhiên đồn lính đã đóng thành công các cổng sắt chận những người nổi loạn vào nhà tù và bắn vào những kẻ tấn công, cuộc rối loạn lớn nhất bị giải tán, để lại tám người chết và một số người bị thương nằm dọc theo vỉa hè.
Một trung úy hiến binh đuổi theo nhóm phiến quân trên đường, ông theo kịp đến trạm xe lửa gọi là “La Rizeries”, giết 4 người trong số này, làm 2 người khác bị thương nặng, bắt 32 người và cướp được lá cờ cách mạng của những người nổi dậy.
Trong khi đó, cảnh sát ở Sài Gòn, Chợ Lớn, đàn áp sự chống đối, tiến hành nhiều cuộc bắt bớ. Ngày hôm sau, họ phát hiện ra, ở những vùng khác nhau, xung quanh Sài Gòn, còn nhiều nhóm ở lại trong đêm, chờ tín hiệu đổ bộ vào thành phố.”
Cờ biểu trưng của Phan Xích Long (tức Phan Phát Sanh). Ảnh: từ sách Hội kín xứ Annam
Cờ hiệu khởi nghĩa năm 1916 ở Nam Kỳ_Ảnh, từ sách Hội kín xứ Annam
G.Coulet chỉ xem Tư Mắt (Nguyễn Văn Trước) như nhân vật của hội kín, tức những người làm quốc sự (như cách nói thời ấy) chứ không xem ông như một nhân vật của giới giang hồ. Đó cũng là điều vinh dự cho ông.
Không phải giang hồ quen thói vẫy vùng như cậu Hai Miêng, nhưng cũng là nhân vật lừng lẫy trong giới anh chị khoảng đầu thế kỷ 20 ở Sài Gòn.
Tên thật Nguyễn Văn Trước, (có tài liệu ghi Nguyễn Phát Trước), chủ tiệm hớt tóc trên đường Thủy Bình - trước 1975 là đường Đồng Khánh, nay là Trần Hưng Đạo, quận 5.
Trùm giang hồ Tư Mắt nổi tiếng trượng nghĩa từng thống lĩnh đàn em ở Sài Gòn - Chợ Lớn đánh Pháp, phá ngục cứu minh chúa.
Chợ Cầu Muối, một trong những cứ địa của giang hồ Sài Gòn xưa nằm trong tay Tư Mắt. Ảnh: Tư liệu
Biệt danh Tư Mắt do một chí sỹ yêu nước đặt cho Trước với ý nghĩa mỗi người chỉ có 2 con mắt nhưng Trước có tới 4. Việc này mong muốn gã giang hồ là người sáng dạ, lẹ tay nhanh chân chạy thoát mọi cuộc bố ráp của lính Tây.
Học giả Vương Hồng Sển trong cuốn Sài Gòn năm xưa thuật rằng, với đám đàn em không tiền, gã cho tiền. Người nào không có áo, đại ca cho áo; thậm chí khi bị tù thì có người nuôi ăn, cung cấp thuốc, bánh. Nhưng khi Tư Mắt cần dùng tới thì việc gì cũng phải tuân, chết sống không kể thân.
Tư Mắt đi đến tỉnh thành nào thì đám lục lâm thảo khấu rần rần tìm đến ra mắt, phục vụ đại ca. Những hàng quán gã giang hồ bước vào thì người khác hội nên lui chân, đàn em tha hồ gọi bánh, gọi mì vì có Tư đại ca bao toàn bộ.
Lính tráng chính quyền Pháp kiêng dè nể mặt Tư Mắt và đám tay chân. Lệnh trốc nã đàn em của Tư đại ca được ban bố nhưng không ai dám đụng tới bởi không khéo mang thẹo, ăn dao của đám du đãng.
Phan Xích Long - thủ lĩnh khởi nghĩa chống Pháp mà Tư Mắt tôn sùng quyết quá ngục giải cứu. Ảnh: Tư liệu
Trong sách Phong trào Đông Du ở miền Nam của Trần Văn Rạng có viết, Tư Mắt rất ngưỡng mộ ông Lê Văn Trung, người tham gia phong trào Đông Du ở miền Nam. Tư Mắt đề nghị với ông Trung ám sát De la Chevrotière, một thượng nghị sĩ Pháp nhưng bị ông ngăn lại.
Năm 1913, Nam Kỳ xôn xao về vụ chính quyền bảo hộ bắt Phan Xích Long - người kêu gọi dân chúng đánh Tây khôi phục nước Nam - rồi giam ở khám Lớn Sài Gòn. Gã giang hồ muốn phá khám cứu minh chúa nhưng ông Trung khuyên không nên động thủ vì còn có hoàng thân Cường Để (cùng Phan Bội Châu tổ chức phong trào Đông Du) sắp xếp mọi việc.
Chí sĩ này sau đó gợi ý cho Tư Mắt gạt bỏ những du côn cướp giật, lập một hội kín bao gồm các anh em tốt. Hội này mở rộng địa bàn hoạt động ra các tỉnh quanh Sài Gòn - Chợ Lớn nhằm thu hút giới nông dân và coi họ là thành phần nòng cốt.
Tư Mắt xây dựng hội kín trong 3 năm. Ngày 14/2/1916 thành viên hội ở Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Biên Hòa... bí mật kéo về ẩn mình trong thành phố. Đến đêm, khoảng 300 người đi thuyền đến chợ cầu Ông Lãnh rồi kéo đến cột cờ Thủ Ngữ, giương cờ đề 3 chữ lớn Phan Xích Long.
Tất cả đều đem theo giáo mác, vận quần trắng, áo đen, khăn trắng quấn cổ, hẹn tập trung tại Khám lớn Sài Gòn. Đến nơi, họ hô to "cứu đại ca" Phan Xích Long, "giết Tây" làm náo động cả thành phố. Lính gác trong đồn xả súng bắn liên hồi khiến đoàn người thương vong rất nhiều...
Cuộc tấn công khám Lớn của Tư Mắt thất bại, ông bị bắt. Tòa khép tội "gia nhập hội kín ám trợ Cường Để" nhưng chỉ kêu án vài năm rồi thả nhằm xoa dịu phong trào chống Pháp đang lên cao ở Nam Kỳ.
Khám lớn Sài Gòn, nơi Tư Mắt dẫn đàn em giải cứu Phan Xích Long. Ảnh: Tư liệu
Tham gia chống Tây, cứu Phan Xích Long là sự kiện khiến Tư Mắt hồi tâm chuyển ý. Ông tỏ ra hối hận, không muốn can dự chuyện giang hồ nữa nên vào chùa Giác Lâm (Chợ Lớn) tụng kinh ăn năn. Sau này Nguyễn Văn Trước có tham gia đạo Cao đài, thụ nhiều chức sắc cao.
Ông qua đời năm 1929 trong một vụ cháy nổ, kết thúc cuộc đời nhiều sóng gió.
(Sơn Hòa, https://vnexpress.net/giang-ho-sai-gon-xua-dan-dan-em-pha-kham-danh-tay-3501521.html)
THÊM ĐÔI DÒNG VỀ THẦY SÁU NG.
Cũng là một nhân vật đặc biệt, mà học giả VHS gọi là giới bất đắc chí trổ sanh nghề lạ. Và đặc biệt hơn, chỉ học giả VHS nhắc đến ông, chứ không thấy trong tài liệu nào khác.
Trích VHS, Sài gòn năm xưa, phần thứ sáu:
Về thân thế của Thầy Sáu Ng., không rõ xuất thân từ đâu, chỉ biết có quốc tịch Pháp, làm nghề chứa cờ bạc:
“Giới người bất đắc chí trổ sanh nghề lạ thì trước có Tư Mắt, sau có Thầy Sáu Ng.
“Thầy Sáu Ng. thì khác. Thầy mua Pháp tịch, lấy tên Tây là Paul D. để rủi thời xộ khám thì được đãi hàng đặc biệt, liệt hàng phạm nhơn Âu tịch. Về sau chạm phải viên chưởng lý Lafrique, Paul D. bị thâu chức dân Tây. Thầy làm nghề chứa cờ bạc khắp vùng Sài Gòn Chợ Lớn, cao lâu khách sạn phải nhờ Thầy Sáu "ủng hộ" thì mới mong hốt me xổ đề không bị bắt hoặc bị bối phá đám giựt tiền. Thầy Sáu tổ chức rất là chu đáo. Mỗi tuần, thầy sai người thân tín đem bao thơ lo lót trao tay đến tận nhà. Cứ đếm một tuần nhựt "chơi" mấy ngày là trả "tiền xúp" mấy bữa. Bữa nào không chơi được thì gọi "ngày ấy hôi", miễn trả tiền. Trả từ trên xuống dưới và trả từ dưới lên trên, ông xếp, ông chủ sự phòng, ông thông, ông ký, thầy đội chạy giấy, chú cai gác đường, anh lính tay trơn cũng "ẵm tiền" thầy Sáu, nên mỗi khi có lịnh trên đưa xuống dạy đi "bắt bài thầy Sáu chứa" thì Thầy đà hay trước, hay gấp mấy lần …
Chuyện dưới đây cho thấy đầu óc mưa mẹo của Thầy Sáu:
Nhắc đến Lafrique là nhớ đến ông chưởng lý mặt sắt "Thiết diện vô tư", giới bất lương đều ngán và kiêng sợ. Thế mà có một lần họ La vẫn bị qua mặt cái vù mà không hay biết, và bị một quan Việt bán đứng không ngờ. Sự cớ như vầy: Thầy Sáu bị họ La bắt về tội chứa me cho vào tù một lúc; lúc khám được ra rồi, Thầy treo giải thưởng: "ai giỏi tài cám dỗ cho cá ăn câu, cho họ La để Thầy tự do chơi ít lâu, thì Thầy đền ơn người ấy: tiền thưởng mặt mười ngàn đồng bạc lớn, riêng mỗi ngày miễn "chơi thả cửa không ai bắt" là có tiền xúp rắc rắc một trăm đồng ngày ấy, nguyện không sai lời. (Thưở đó, thống đốc Nam Kỳ lương chưa đến ba ngàn bạc). Và có một thống đốc từng phân bì ăn ít hơn viên cò xếp Chợ Lớn, vì lễ mễ lì xì của Tàu cho cò vô số đếm. Như vậy bạc một trăm mỗi ngày, tính ra nhằm một tuần bảy bữa: 100$ x 7 = 700$, và mỗi tháng hai mươi tám ngày, là 100$ x 28 = 2.800$. Trong khi ấy, viên chánh tham biện Tây gần về hưu, nhứt hạng tham biện, lương tháng chín trăm và viên đốc phủ sứ đặc hạng, lương tháng hai trăm năm chục đồng. Vì ham số bạc kếch xù, mà cũng vì bấy lâu thua me sòng Thầy Sáu thâm thủng lần hồi vô phương cạy gỡ, vay hỏi bạc Chà không được nữa nên có một ông Quận, ngồi cai trị một vùng có tiếng là xứ cao su tốt nhứt trong Nam, ông ta nghĩ ra một diệu kế. Ông biết họ La có đồn điền trong quận mình, nên một hôm xuống lãnh mạng với Thầy Sáu giao kết ngày ấy, tháng ấy, Thầy Sáu cứ mở công khai sòng me tại số... đường... trong Chợ Lớn, nếu không ai làm khó dễ thì Thầy phải giữ lời trao cho ông số bạc mười ngàn. Liền khi ấy, còn tiền thưởng mỗi ngày một trăm hẹn hậu nhựt tri. Thầy Sáu ưng chịu. Đến ngày hẹn, Thầy dẫn cái ngành thầu (ngân đầu) đến chỗ do ông Quận chỉ, kẻ trải chiếu, người cầm chén hốt me, tay con đặt rần rần trọn buổi tối, từ đỏ đèn đến khuya, thiên hạ vô ra nườm nượp không khác nào nhà Xéc (Cercle), có ba tăng, thế mà lính tráng, biện Tây không một ai nói nửa lời. Thầy Sáu mừng rỡ ra mặt, xỉa tiền thưởng mười ngàn không tiếc, mà mừng hơn ai cả, là ông Quận, ông chờ sẵn từ hồi nào, ông thộp số bạc nhét vào túi ngon lành, lên xe đi một nước, không cần đếm, lại còn dặn vói thầy Sáu hãy tiếp tục đi rồi sẽ hay. Thầy Sáu quen mửng (lối) cũ, qua ngày sau, còn mời thêm các tay sộp cho sòng me thêm cụp lạc. Đợi tay con đông đủ, chủ cái đương "nhập thần", me đang xí mứng (vô cuộc) ngon lành, thì lính cò ụp tới xỏ xâu dắt về bót, chỉ thiếu mặt chủ chứa, nhưng Thầy Sáu đã có người hy sinh ra chịu tội thế. Té ra ông Quận quả là diệu thủ. Ngày trước ông mời họ La đến nha môn đãi cơm thết rượu. Họ La vị lòng, vẫn cần dùng ông Quận để coi chừng coi đỗi sở vườn và nhờ chăm nom ba "thằng cu li", đừng cho chúng nó trốn hoặc bỏ sở, bởi thế nên khi nghe ông Quận ngỏ lời thiết yếu xin ông ban đặc ân nhơn ngày giỗ tổ tiên trong Chợ Lớn, tại căn phố của nhạc phụ, số... đường..." đúng vào ngày thứ bảy tuần tới, ngày ấy có anh em bà con cô bác tề tựu đông người và có đánh bài ăn thua nho nhỏ cho vui đám ", họ La nghe chưa dứt lời đã gật đầu lia lịa, về nhà còn không quên căn dặn cò bót đến ngày giờ đã định đừng khuấy rầy ngày giỗ tổ tiên của người ta, nhưng chỉ ngày thứ bảy đó thôi, vào ngày khác có xảy ra việc gì thì cứ phận sự thi hành. Bởi rứa nên việc hôm sau Thầy Sáu đành ôm hận vào lòng, tuy thất bại nhưng đối với Thầy, như bù mắt cắn voi, nào thấm tháp chi thầy, hòng sợ!
Và cách mà Thầy Sáu, dù chỉ là phó thường dân, như lại oai hơn quan, hơn làng:
Kể về thế lực, Thầy Sáu không làm quan, làm làng mà oai vệ hơn quan làng bá bội. Chiều chiều, thầy ngồi xe hơi "sáu máy", tài xế chánh và tài xế phụ đều vận y phục có lon chạy chỉ thêu, thầy rảo một vòng Chợ Lớn lấy tiền xâu, thầy ghé cao lâu nào thì y như hẹn trước, tài phú kéo ngăn tủ lấy bạc ra nạp không sai một xu nhỏ. Có khi thầy cao hứng lên lầu cầm chén "xổ cái" giải muộn, mấy khi như vậy, các tay hổ kha (con bạc) đặt thả cửa, nếu thầy thua đã có chủ tiệm bao thầu, chung trả đủ rồi sau sẽ tính toán với Thầy. Mà cờ bạc như sòng Thầy Sáu, ai lại không ưa. Trước khi có bày ra Đại Thế Giới, mấy mươi năm về trước, mà thầy đã sắp đặt ngăn nắp hẳn hòi. Tiệm cao lâu nào do thầy tổ chức chỗ chơi, thì đèn đỏ đèn xanh báo hiệu đàng hoàng, lính tráng hoặc du côn, bợm bãi không thể nào trèo lên lầu được mà hòng phá phách. Chỗ chơi, khách vừa bước vào là đã có người đến dâng nước đá, nước cam giải khát; mì cháo tha hồ muốn dùng cứ gọi tửu bảo hầu sáng đem lên, khỏi trả tiền, thêm sẵn bàn đèn mời mọc, sập gụ bóng trơn, muốn giải phiền mấy điếu ngao, cũng có đủ người, đủ chỗ cung cấp, thậm chí có người quá tham, thừa dịp nằm gần bàn đèn tiêm tiêm, nướng nướng, nhét á phiện đầy hộp kalmine để đem về nhà hút sướng thân khỏi tốn tiền, việc như vậy mà cũng không một ai chỉ trích, chiêu hiền đãi sĩ đến thế là cùng! Cờ bạc thì không đánh đặt bằng tiền mặt, vì dầu thế cũng phải đề phòng để nếu khi bị bắt thì dễ chạy án; trong sòng sát phạt ăn thua với nhau bằng "nút chí" hoặc bằng chiếc đũa, tùy màu sắc khác nhau, nút chí kể là bao nhiêu đồng, chiếc đũa tùy màu sắc, là mấy chục mấy trăm, tùy giao kết trước. Khách thôi chơi bước xuống lầu đến bàn tài phú, trao các vật ấy là có đủ số bạc, không sai chạy xu nào cả. Có khi khác Thầy Sáu ngồi nhà hàng uống rượu khai vị hoặc để nghe em út phúc trình chỗ nào chơi, chỗ nào dẹp, chỗ nào có người phá đám, hoặc cũng để khoe cô nhơn tình mới sắm! Lối ăn mặc của Thầy rất kỳ dị, nửa dọn bàn, nửa mấy ông, mấy thầy. Buổi sáng thấy thầy diện bộ tussor (vải tơ tầm) bén ngót, buổi chiều thầy tra bộ "quàng đông" hàng Bắc Thảo, chơn đi giày escarpin! Một hôm thầy mặc y phục lụa đen, đơm sáu nút óng ánh là sáu hột kim cương lớn cỡ đầu ngón tay út. Thầy đến gõ cửa phòng nhà ngủ Bá Lạc góc đường Lê Công Kiều Chợ Mới, để nhờ thầy Tư Nên xem số tướng. Tư Nên lúc ấy đang nổi danh, thoạt trông tướng mạo thầy, Tư Nên cũng phải giả chước mệt mỏi xin hẹn qua ngày sau sẽ đến nhà đoán vận mạng luôn cả hai ông bà mới chắc chắn hơn. Sau, thầy Tư Nên nói riêng với tác giả bài nầy (V.H.S.) rằng sở dĩ hôm ấy thầy không dám trổ tài, là vì thoạt tiên thầy thấy một người mặt mày dữ tợn, ăn mặc khác thường, trong ý Tư Nên định: nếu đó là "ăn cướp sát nhơn" thì sao chưa ngồi tù, còn nếu đó là "trưởng giả phú hào" thì sao hình thù tướng mạo lạ lùng đến thế? Tư Nên đưa khách ra cửa, nhớ số xe nên sau nhờ hỏi người xa phu (tài xế) biết được đích thị đó là thầy Sáu Ng. Qua ngày kế đó, Tư Nên đến nhà xem cả chỉ tay hai vợ chồng Thầy Sáu, và nhờ biết trước nên đoán không sai một mảy. Nào số thầy ngồi không chia của, tướng Đơn Hùng Tín đời Đường. Nào năm tới đây, chỉ tay thầy đứt đoạn nơi đường sanh mạng, lẽ đáng năm tới thầy bỏ mình. Nhưng may sao tay của vợ thầy không có số chết chồng, nên đổi lại năm tới đây thầy và cô sẽ cách mặt nhau, hoặc nhẹ thì do một cuộc đi chơi xa, Đông du, Tây du nào biết, hoặc nặng thì thầy sẽ bị ngục hình tù tội. Tư Nên nói rất nhiều, Thầy Sáu khen lấy khen để, và về sau, nghiệm ra không sai một lời, quả nhiên Tư Nên đáng là bậc kỳ tài trong khoa tướng số. Thầy Sáu sau nầy bị kẻ khác mạnh thế lực hơn giành nghề, thêm hết thạnh đến suy, về già thầy đánh đâu thua đó, lại bị bạn hữu trở mặt cướp mất một số tiền to tát, nên thầy bán cả hai nhà lầu xinh đẹp, và tỵ trần trong một nhà dưỡng lão gần Sài Gòn. Em út, như bồ câu hết lúa, không một đứa cho thầy thấy mặt, lúc lâm chung. Tác giả bài này được mục kích năm 1927 - 1928, một vụ Thầy Sáu xử kiện và lên án đày lưu một chú chệc chuyên môn đổ tam hường lận (ăn gian). Bà Phán K. đến xẹc (cercle) của Thầy Sáu trong Chợ Lớn. Nơi đây, mỗi đêm có một sòng tam hường ăn thua mỗi thẻ hường là năm đồng. Chú chệc tráo hột, ăn bà K. sạch túi, hơn ba ngàn bac. Sau có người mách mánh lới gian, bà K. đến thưa tự sự tại nhà Thầy Sáu. Thầy lật đật sai em út quần khắp chợ Bến Thành và trong Chợ Lớn, may sao gặp được chú, lập tức mời chú đến nhà riêng của Thầy, có cả bà Phán đối nại và các tay em út thính lịnh. Thầy Sáu tra hỏi kỹ càng, xét quả đúng như lời bà K. than phiền. Thầy xử chú phải trả đủ số bạc gian lận cho bà K. Trả rồi, thầy lên án: "Sòng bài xẹc tôi tổ chức ăn thua sòng phẳng. Bà Phán đây tôi vẫn kính trọng là anh, là chị của tôi. Nay nhà ngươi đến phá đám. Tội ngươi nặng lắm, nhưng nể lời bà đã xin tha, thì tôi cũng tha cho làm phước, duy tự hậu, tôi cấm nhà ngươi tốt hơn đừng héo lánh tới Chợ Bến Thành, đất Sài Gòn và nhà xẹc của tôi. Em út, nghe dặn: Đứa nào gặp mặt hắn ở đâu thì "mần" hắn cho tôi. Có bề nào tôi chịu!" Lạy lục năn nỉ cách mấy cũng không xiêu lòng, chú đành cuốn gói trở lên Nam Vang hành nghề. Rủi ro bị bắt, bất quá ngồi tù ít lâu. Với Thầy Sáu, không được như vậy. Như thưở kia đối với Tư Mắt, Thầy Sáu có em út thừa hành phận sự, hễ không cho ở được một chốn nào thì chỉ có một nước phải tuân lịnh thầy mới mong bảo toàn sanh mạng; cãi lịnh, đoàn em út Thầy Sáu "ăn thịt" có ngày. Thầy Sáu còn có một phương pháp nuôi em út cũng ngộ. Tùy đứa, tùy tài, thầy dùng theo chỗ: đứa gác đường, đứa giữ cửa, đều có phận sự và có lương ăn. Gặp khi túng bấn hữu sự, em út đến xin tiền, thầy Sáu chỉ ngay giỏ giấy bạc cũ rách và thiếu miểng, thiếu góc, do tiền hồ, tiền xâu dư lại: "Đó! mặc ý. Đứa nào ráp mót được bao nhiêu thì lấy đem về mà xài!" Đôi bên đều thỏa thuận như vậy, nhưng than ôi, giấy còn khá khá, giấy ít hư hao đã được o bế từ đêm trước kia rồi, nhà Thầy Sáu có nuôi cả một bộ Ba Tàu chăm nom và đếm giấy bạc, có thua gì nhà băng!
Và, cách thầy qua mặt ngay cả một ký giả chân chính, mà nay ta gọi là PR (Public Relations, quan hệ công chúng hay nôm na là dùng các phương tiện truyền thông đánh bóng tên tuổi):
Kể về bộ quân sư của Thầy Sáu cũng tài tình lắm lắm. Thưở đó, một học giả (vừa mới mất), ông chuyên viết báo, và Pháp văn của ông rất đanh thép, rất mực phong lưu, nhà viết báo Maurice Monribot đã từng bái phục, ví văn ông như văn Anatole France pha mùi Buffon. Ông làm chủ nhiệm một tờ tuần báo rất được đồng bào chú ý. Ông bình sanh rất thích xem đánh võ đài và có tánh ưa đến gần. Mê xe hơi kiểu mới lạ, chạy êm, chạy lẹ. Thú tiêu khiển của ông là hằng ngày, ăn vận chỉnh tề, ngồi ngay ngắn nơi băng sau, để tài xế đưa đi dạo phố phường, bến tàu, lăng Cha Cả. Nhưng tánh ông rất ghét bạc bài và bổn tánh rất thanh liêm thẳng thắn. Nghe Thầy Sáu chứa bài nơi đâu là số báo sau có ít hàng của ông chỉ trích. Thầy Sáu sợ lắm và nhột quá, mượn người tin cậy đến xuống nước quy hàng và xin nạp ông mỗi tuần một số bạc to tát. Nhưng không bao giờ ông khứng hạ mình lãnh số tiền nhơ nhớp ấy. Thầy Sáu đăm chiêu nhưng cũng chẳng biết làm sao. Cách ít lâu, ông muốn sắm xe hơi, nên đăng báo tìm cách bán xe cũ. Một chú Ba Tàu đến ưng mua với một giá cao hơn giá ông định khá nhiều. Ông mừng thầm trúng mối và vui lòng bán xe, thơ thới và khoan khoái như một quân tử làm một việc thanh thiên bạch nhựt. Ông vẫn y như cũ, thẳng tay "bố" Thầy Sáu nếu dịp đưa đến. Nhưng ngờ đâu, kỳ Thầy Sáu chứa bài sau vụ ông bán xe, ông đành ngơ mắt, giả đui, giả điếc, vì vừa dợm viết thì mặt thằng Ba Tàu ló ra: "Hè! Tội nghiệp mà! Ngộ đâu có tiền mua xe của ông! Mua xe của ông, hè, là tiền của Thầy Sáu lớ! "
Thầy Sáu Ng. chẳng kém Bố già Lucky Luciano của Mario Puzzo là mấy !!! Thầy ưa dùng cái đầu hơn là nắm đấm, và thành công trong một xã hội đầy nhiễu nhương thời Pháp thuộc. Và tại sao lại xưng là Thầy, thì học giả VHS không giải thích. Mà tuy “không làm quan, làm làng mà oai hơn quan, làng bá bội”.
VÀ ĐẠI CATHAY
Đại Cathay. Ảnh tư liệu
Những năm 50, 60 thế kỷ 20, ở Sài Gòn nổi lên một tay chị lừng lẫy trong chốn giang hồ, được tôn xưng như ông trùm. Đó là Đại Cathay.
Là nguyên mẫu cho tiểu thuyết Điệu Ru Nước Mắt và Luật Hè Phố, của nhà văn Duyên Anh. Nhưng khác xa với tiểu thuyết, Lê Văn Đại, sinh năm 1940, không phải con nhà giàu, lúc nhỏ sống với cha mẹ ở Cầu Mống, Q.I. Ít nói nhưng lì lợm, Đại lang thang ở khu vực Hội trường Diên Hồng, đường Nguyễn Công Trứ. Ở góc đường có rạp hát nhỏ tên Cathay. Đánh nhau với các băng nhóm khác, dù lớn tuổi hơn, băng của Đại thường thắng nên được đám trẻ bụi đời, đá cá lăn dưa, đánh giày, bán báo tôn làm đại ca. Vì thế mà thành danh Đại Cathay.
Đám trẻ bán báo, đánh giày, hàng ngày đi làm, tối về nộp tiền cho đại ca. Tiền nhập vào quỹ, nhưng Đại chia đều cho các anh em. Hôm nào trởi mưa, không bán được báo, Đại lấy tiền quỹ bù vào, nên các đàn em rất phục. Tính cách này không giống nhân vật Lượm trong “Luật Hè Phố”. Bọn trẻ bán báo đánh giày, cuối ngày mà không nộp đủ là bị đại ca Lượm rút dây lưng da vụt thẳng tay.
Năm 1955, khu Cathay được chỉnh trang, rạp hát bị xóa bỏ, Đại phải tìm cách lấn sang khu chợ Cầu Muối, Cầu Ông Lãnh, đang do Tám Lâu cai quản. Đại đánh bại Tám Lâu, chiếm được khu vực này khi chưa tới 20 tuổi.
Trong có vài ba năm, Đại thành ông trùm khét tiếng, bảo kê cho hầu hết các tụ điểm ăn chơi ở Q. 1, 2, 3. Điều này 3 tay chị có tiếng khác là Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái Ba Thế ngứa mắt, hẹn đến vũ trường nói chuyện phải quấy. Đại bị đánh lén, bị chém suýt chết. Thoát được, Đại xách dao phục kích chém từng người. Nhóm Tỳ, Cái, Thế phải điều đình giảng hòa và chịu phục tùng.
Sự ngang ngược của Đại Cathay làm chính quyền Sài Gòn tức giận. Đích thân tướng Nguyễn Ngọc Loan, Giám đốc Nha Cảnh sát đô thành phải nhiều lần thương thuyết, thậm chí còn đề nghị chức Đại úy phó ty Cảnh sát. Đại đều từ chối. Chiến dịch “bài trừ du đãng” mở ra, với cả Biệt đội hình cảnh do đại uý Trần Kim Chi cầm đầu để diệt các băng nhóm giang hồ.
Mộ tai nạn bất ngờ xảy ra, chiết xe tải tông chết xe chở đại úy Trần Kim Chi. Cho là Đại nhúng tay trong vụ này, Cảnh sát bắt giam Đại và nhiều đàn em, đưa ra nhốt ở trại giam Phú Quốc.
Năm ấy Đại 26 tuổi. Không ai còn nghe gì về Đại Cathay nữa. Sau này có tin đồn anh ta bị một biệt đội cảnh sát phục kích bắn chết khi tìm cách vượt ngục.
Không có một hành động oanh liệt, phá ngục cứu người của cách mạng như Tư Mắt. Không phải là tay giang hồ nghĩa hiệp như Cậu Hai Miêng, nhưng tính cách hào sảng, công bằng với đàn em, không thỏa hiệp với chính quyền Sài Gòn để bán đứng anh em, lì lợm và không chấp nhận thua cuộc, dù là với đối thủ sừng sỏ, võ nghệ cao cường, Đại Cathay đã làm nên tên tuổi, một huyền thoại trong chốn giang hồ thuở ấy.
Đây là bài thơ mà nhà văn Duyên Anh ứng tác tặng cho Đại Cathay (chép theo trí nhớ một người anh, anh N.V.P.)
Hắn mái tóc nâu vương niềm đau thế kỷ
Quần blue jeans chung thủy bạc thời gian
Bastos xanh gắn chặt ngón tay vàng
Theo thời gian hắn vương mình cuồng loạn
Lớp trẻ đôi mươi hôm nay cởi mở lòng
Và trọn vẹn cho hắn sống
Dù mất hồn như Francois Sagan, David Victor…
Tương lai đâu ?...
Hai giờ đêm có kẻ mất hồn
Hè đại lộ, bar, show, dồn dập overnight
Lê gót giầy nghiến từng lưng phố xá
Crazy love, kêu em về mộng mị đắm say…
Tháng 11. 2023
NTH
-
QUÂN VƯƠNG VÀ BINH PHÁP< Trang trước
-
KÍCH TÔN SƠN BÁ TƯỚC VÀ CÁC BẢN PHÓNG TÁCTrang sau >