VUỐT RÂU HÙM, Kỳ 11

Phần II

Chương V

1.

Ken đang ở trong phòng ngủ thì nghe tiếng chuông cửa reo. Anh đứng bất động trong giây lát, không nhúc nhích nổi vì sợ. Cảnh sát trở lại ? Viên trung lại sắp thẩm vấn anh ? Anh có để lộ điều gì không ? Anh nhìn đồng hồ trên bàn. Chín giờ mười phút. Là ai nếu không phải là cảnh sát ?

Anh rón rén tới cửa sổ nhìn ra. Không có chiếc xe nào ở cổng. Không thể là cảnh sát. Anh mở cửa, bước xuống lối đi. Nhưng nếu nhìn góc lối đi, anh có thể quan sát qua khung kính cửa để biết người đến là ai mà không bị nhìn thấy.

Anh bắt đầu dịch dần lên thì có tiếng động trên đầu làm anh giật mình đứng lại.

Đứng giữa lối đi, ngước nhìn anh là con chó Bắc kinh nâu vàng.

Con chó trố cặp mắt lồi như mắt cóc nhìn anh, không lộ vẻ gỉ hết.

Ken lạnh người, đứng như mọc rễ, sốc đến tê cứng.

Anh nghe tiếng chân bước nhẹ, rồi Sweeting ló ra ở góc lối đi. Y ranh mãnh nhìn Ken, rồi cúi xuống bế con chó lên.

Y nói, “Tôi xin lỗi hộ Leo. Nó không nên xấn vào thế này, nhưng tôi chắc là nó rất thích anh.”

Ken rán nói, nhưng không thốt được tiếng nào.

Sweeting tiếp, “Ông Holland, tôi muốn nói chuyện với anh. Anh là ông Holland hẳn? Tôi có liếc qua mất lá thư trong sảnh. Ghi địa chỉ của anh, hay tôi có nhầm lẫn gì không?”

Ken không cố đóng kịch. Đầu óc anh tê liệt vì kinh sợ.

Anh khàn giọng nói, “Ông muốn gì?”

Sweeting đưa ngón tay sờ đầu Leo, nói, “Chỉ vài phút thôi mà. Ta nên ngồi chăng? Tôi vừa có một ngày rất mệt. Sẽ không lâu đâu. Là chuyện làm ăn”. Y nhìn trường kỷ. “Trông êm ghê. Ta lại đó đi”.

Không chờ đợi, y bước tới trường kỷ.

Y nói, nhìn quanh, “Đẹp quá. Thật thích mắt. Tôi ghen với anh, anh Holland, nhà anh đẹp quá”. Đôi mắt tròn nhỏ nhìn sang tấm hình của Ann lồng khung bạc. “Vợ anh phỏng? Duyên dáng quá! Thật xinh! Cô ấy vắng nhà phải không?”

Ken nhìn cái gã bé nhỏ, mập ú, dính đầu dầu mỡ đi quanh trường kỷ cứ như y là chủ nhân vậy. Anh từ từ bình tĩnh lại sau cú sốc và thấy mình đang ở trong nhà mình. Sao Sweeting tìm được anh? Có chuyện gì xảy ra? Hắn định tống tiền mình chăng?”

Sweeting nói và dừng cạnh tủ rượu, “Ồ, anh có hẳn tủ rượu trong nhà. Thật thích. Anh Holland, anh biết không, tôi ước gì có được tủ rượu thế này. Tự mình đặt ra tiêu chuẩn thì ngon rồi, phải không? Nhưng  e là tôi không thành công mấy. Có những người may mắn hơn người khác. Tôi muốn uống một ly thì có bất lịch sự lắm không? Có rượu với cái ghế dễ chịu thế này, ta dễ bàn chuyện làm ăn hơn nhỉ?”

Y đặt con Leo xuống trường kỷ, tự rót cho mình một ly uýt ki bự, cầm ly lại ghế có tay vịn, ngồi xuống.

Y vừa nói vừa nhìn Ken, “Đệ nhất hạng. Anh không ngồi sao, anh Holland?”

Ken chậm chạp ngồi xuống.

Anh hỏi, “Ông muốn gì?”

“Về chuyện tối qua. Một thiếu nữ bị giết ở căn hộ trên căn hộ của tôi. Tôi có vài thông tin mà cảnh sát chắc sẽ quan tâm”. Sweeting dừng lời, cười ra vẻ hiểu biết.

“Tôi không ngại chuyện làm điềm chỉ cho cảnh sát, anh Holland à. Tôi nhận thấy bổn phận của tôi là báo cho họ những gì tôi biết, nhưng họ lại ít khi tỏ ra thông cảm. Sau rốt, tôi luôn nghĩ rằng người ta cần quan tâm tới cái gì trước.”

Ra là chuyện tống tiền. Ken với lấy điếu thuốc, đốt bằng ngón tay run run.

Anh nói chắc nịch, “Tôi không liên quan gì tới vụ sát nhân.”

Sweeting nghiêng đầu.

“Tôi chắc vậy.Nếu tôi nghĩ anh không liên can, tôi đã không ở đây. Tôi là người cẩn thận. Tôi không cho phép mình trở thành đầu mối cho vụ án mạng. Không, dĩ nhiên anh không liên can tới vụ giết người, nhưng anh có mặt trong căn hộ của cô Carson khi nó xảy ra, phải thế không?”

Ken không nói gì.

“Anh Holland, tôi chắc anh quá nhạy cảm không dám phủ nhận”. Sweeting nói sau một lát im lặng, “Tôi thấy anh đi ra. Tôi có để ý thời gian.” Y lắc đầu tỏ vẻ buồn phiền, “Anh đang ở trong tình thế nan giải. Anh gần như không thể thuyết phục cảnh sát là anh không giết cô gái. Họ luôn muốn có một vụ bắt giữ.”

Cơn giận trong Ken đang dâng lên với gã mập đạo đức giả này, kẻ rõ ràng đang nắm thế thượng phong.

Anh nói cộc lốc, “Rồi, tôi thừa nhận. Giả sử như tôi đồng ý thì ông có đề nghị gì không?”

Sweeting nhún vai.

“Anh Holland, hoàn toàn tuỳ thuộc ở anh.”

“Có phải là vụ tống tiền không?”

Sweeting cười.

Y nói và lắc đầu, “Có người gọi là vậy đấy. Từ này bẩn lắm. Tôi thích nói là để đổi lấy việc tôi giữ kín thông tin, anh sẽ tặng cho tôi món tiền thưởng nho nhỏ.”

“Ông muốn gì?”

Sweeting không dấu vẻ hài lòng. Cuộc đối thoại diễn ra êm đẹp, đúng y như y đã dự tính.

“Anh Holland ạ, tôi nghèo. Nói thật với anh, tôi đang rất cần một món tiền dằn túi. Tôi nghĩ anh có thể đưa tôi chừng hai trăm đô la làm khoản lót tay ban đầu, và hàng tháng thêm một số nhỏ nữa.”

Ken nghe điếc con ráy, “Nhỏ chừng nào?”

“À, ba chục, ba lăm chẳng hạn.”

Ken nhận ra, nếu anh đồng ý đưa tiền cho Sweeting, sẽ không có kết thúc. Anh sẽ bị chảy máu. Anh phải có điểm dừng. Anh phải nghĩ đến Ann. Anh phải cần đến từng xu để phòng xa.

Anh lặng lẽ nói, “Tôi sẽ chỉ mua thời gian. Cảnh sát sẽ tìm ra tôi không cần đến ông giúp đỡ. Ông nên báo cho họ những gì ông biết. Ông sẽ không nhận được gì ở tôi đâu.”

Sweeting có quá nhiều kinh nghiệm trong những vụ tống tiền lặt vặt. Y hơi ngạc nhiên khi Ken cố tháu cáy, thấy được tình thế nguy hiểm, nhưng y sẵn sàng chấp nhận thái độ của Ken. Rất nhiều nạn nhân của y trong quá khứ tìm cách tháu cáy, nhưng rồi cũng phải phục tùng vào phút cuối.

“Anh Holland, ta hãy thật thông cảm. Bằng chứng của tôi sẽ đưa anh lên ghế điện. Sau rốt thì tôi là nhân chứng duy nhất thấy anh rời nhà vào thời gian mà cảnh sát xác định là cô ta chết. Nếu tôi giữ im lặng…”

Ken nói và đứng lên, “Ông lầm rồi. Có người khác nhìn thấy tôi. Người phụ nữ ở tầng trệt. Bằng chứng của ông không chắc chắn như ông tưởng.”

Sweeting nhìn anh, lùi lại.

“Anh Holland, chờ tí nào. Ta không nên vội vàng quá. Người phụ nữ này không biết anh là ai, tôi thì biết. Thật ngu xuẩn khi hy sinh mạng sống vì mấy đồng đô la. Hơn nữa, anh phải nghĩ đến vợ anh chứ. Nghĩ coi cô ấy sẽ đau đớn biết bao nếu biết anh đã làm gì.”

Ken hung hăng nói, “Để vợ tôi ra ngoài chuyện này. Tôi không trả anh xu nào. Cút đi !”

Sweeting đánh rơi nụ cười nồng hậu. Mặt y rắn lại và đầy vẻ thù hằn.

“Anh Holland, anh không được nói thế với tôi. Tình thế của anh không được tỏ ra bất lịch sự. Tôi sẽ không do dự đến ngay cảnh sát nếu ta không thỏa thuận được. Tôi cho anh biết tôi sẽ làm gì. Tôi quyết định lấy hai trăm đô la, tôi không ép anh khoản tiền trả hàng tháng. Không thể nào tử tế hơn nữa, phải không nào? Hai trăm đô la tiền mặt.”

Cơn giận của Ken nổ bùng ra. Anh giằng ly uýt ky khỏi tay Sweeting. Thái độ giận dữ, đằng đằng sát khí của anh làm Sweeting hoảng.

Y thở dốc, rúm người trên ghế, “Anh Holland, đừng làm thế…”

Leo, như đánh hơi được thất bại của chủ, trườn khỏi ghế, đuôi quặp giữa hai chân, cun cút bò ra cửa.

Ken nắm áo Sweeting nhấc bổng y lên.

Anh giận dữ nói, “Đồ chuột nhắt khốn kiếp ! Mày không lấy được xu nào của tao đâu ! Tao chịu hết nổi rồi ! Mày hay cảnh sát không động được đến tao !”

Sweeting thở dốc, mắt lồi ra khỏi đầu, “Anh Holland, đừng động tay chân nữa. Nếu anh thấy cách này…”

Ken buông y ra, lùi lại, vận hết sức đấm vào mắt phải Sweeting. Anh thấy thỏa mãn khủng khiếp khi khớp tay đập trúng mặt Sweeting.

Sweeting ré lên vì đau, hụt chân té ngữa trên tấm thảm, gây tiếng ầm làm rung cả căn nhà.

Ken quát lên, “Cút đi ! Tao mà thấy mày lần nữa, tao đập vỡ mặt mày ra !”

Sweeting lồm cồm đứng dậy, lấy tay che mắt. Y kinh hoảng ù té chạy ra mở cửa, lào đảo xuống cầu thang.

Leo đã lẩn ra đường, chủ nó theo sau.

Ken thở nặng nhọc, nhìn qua cửa sổ tới khi Sweeting mất dạng. Anh không nghi ngờ gì việc Sweeting đi báo cảnh sát. Vài tiếng nữa, anh sẽ bị bắt giam. Ý nghĩ này làm anh sợ, nhưng anh biết anh phải đối mặt với nó.

Anh không hề nghĩ đến chuyện chạy trốn. Anh đã quá hèn nhát rồi. Anh đã hoàn toàn xuấn ngốc. Giờ là lúc đối diện với mọi sự. Giải pháp duy nhất là từ bỏ, kể lại sự thật và hy vọng cảnh sát tin ở anh. Anh không mong họ sẽ tin, nhưng dù gì cũng tốt hơn những gì đã qua.

Anh không còn thời gian nữa. Anh phải đến trụ sở cảnh sát trước khi Sweeting bỏ xa anh.

Anh nhìn quanh phòng khách và tự hỏi mình còn dịp thấy lại nó không. Anh nhìn tấm ảnh Ann, tim anh thắt lại. Với nàng hẳn là một cú sốc. Anh là một thằng điên vô trách nhiệm.

Anh tự hỏi không biết có nên viết thư cho nàng không. Nhưng không còn thời gian. Anh nên đến trụ sở cảnh sát ngay lập tức.

Anh đi nhanh vào sảnh, đội mũ, khóa cửa, rồi thấy có chiếc taxi chạy qua, anh vẫy tay, chạy ra đường, tót vào xe.

Anh nói với tay tài xế đang kinh ngạc, “ Đồn cảnh sát! Nhanh lên!”

 

 

 

2.

Thám tử Dave Duncan liếc đồng hồ tay rồi thở dài. Chỉ mới hơn chín giờ. Anh mong mình về nhà kịp bữa tối, nhưng hy vọng đã tan. Anh rầu rĩ tự hỏi không biết vợ mình đang nghĩ gì. Cứ hễ về trễ là cô ta buộc tội anh ngu ngốc bu theo đám đàn bà. Anh không bao giờ thuyết phục được cô là giờ giấc của sĩ quan cảnh sát rất thất thường. Có lẽ cô ta sẽ dễ bảo hơn nếu anh bảo cô biết anh đang làm việc với Donovan về một vụ sát nhân, nhưng anh ngờ lắm.

Anh nhìn mớ hồ sơ bừa bộn trên bàn. Trung sĩ Donovan đã nói anh phải chuẩn bị bản báo cáo vụ Carson cho ông Ủy viên, anh vừa hoàn thành xong. Mất bốn mươi phút đánh máy. Donovan đã đọc và anh chắc phải thay đổi nhiều điều. Chắc phải đánh máy lại. Duncan không hy vọng gì sẽ về được nhà trước mười hai giờ rưỡi. Còn một vụ lai dắt nữa đang chờ anh trong khi anh chỉ muốn ngủ. Anh đốt điếu thuốc, ngồi xuống cái ghế cứng quành đọc lại những gì anh đã viết.

Đọc nửa chừng anh phát hiện ra một việc làm anh nhảy dựng lên, một cơn phấn khích chạy dọc sống lưng. Anh không kịp suy nghĩ, ai đó đá cửa ra, trung sĩ Donovan bước vào.

Donovan đóng sập cửa, lại ghế ngồi xuống, “Này ! Tôi thấy có việc này. Ta nhận được bộ đồ xám của gã tình nghi. Có vết máu. Anh biết gì chưa?”

Cố kiềm cơn phấn khích, Duncan đẩy báo cáo ra, đốt thuốc rồi hỏi, “Ông tìm thấy ở đâu?”

Donovan nhăn nhở cười, “Có đột phá mà. Tôi đang nhai gã béo với trung sĩ trực thì hắn bỗng nhận ra cửa hàng Gaza có báo là tìm thấy bột đồ xám có vết ố lẩn trong các bộ đang chưng. O’Malley đi xuống đó, nghe tay phụ bán hàng nói. Vừa lúc ấy, một nhân viên bán hàng khác ở gian hàng giày báo là có một đôi cũ lẩn trong các đôi đang trưng bày. Một chiếc có vết ố. O’Malley kiểm tra , thấy đó là vết máu: trên bộ đồ và trên đôi giày. Nhân viên này nhớ lại có một gã cắp theo cái gói khi mua bộ đồ xám, nhưng không mang cái gói theo khi về. Mô tả của hắn khớp với gã ta đang theo dấu trong vụ Carson, dấu máu này thuộc nhóm máu của Carson.”

Hắn liệng xấp giấy lên bàn, “Đây là báo cáo của O’Malley. Phải đính kèm theo báo cáo của ta. Anh nên làm nhanh lên. Ông Ủy viên hy vọng tôi có thêm tình tiết.”

Duncan đẩy báo cáo sang bên.

“Tôi có cái này cho ông, trung sĩ. Tôi cá năm đô tôi biết kẻ sát nhân là ai.”

Bộ mặt bự thịt của Donovan biến sắc. Hắn nhìn Duncan, đôi mắt ti hí hẹp lại.

“Anh nói cái quái gì vậy?”

“Thằng cha Holland giết ả.”

Donovan nổi giận, “Anh khùng à? Nhìn đi. Nếu không thể nói chuyện đứng đắn, thì dí mắt vô cái báo cáo này đi. Tôi muốn về nhà lắm rồi.”

Duncan nhún vai.

“Được thôi. Nếu ông cảm thấy thế. Nếu chính tôi giải quyết vụ này, tôi sẽ đặt niềm tin vào đó.”

Mặt Donovan tím ngắt.

Hắn nổi giận, “Nếu anh còn nói chuyện kiểu đó…!”

“Tôi nói với ông gã chính là kẻ ta cần, tôi sẽ chứng minh .”

Donovan cố kiềm chế. Hắn đứng dậy bước lại chỗ bàn mình, ngồi xuống.

Hắn nghiến răng, “Nào chứng minh đi.”

“Có nhớ Holland sợ thế nào khi ta ghé nhà hắn không?”

Donovan gầm gừ.

“Đâu có nghĩa y là thủ phạm. Anh và tôi đều biết nếu cớm ghé nhà, bất cứ thằng nào mà không vãi đái ra. Nếu không làm gì hay hơn thì ngậm cha cái mõm lại.”

Duncan nhẹ nhàng nói, “Thằng này còn hơn thế. Khi ông nói chuyện với hắn, tôi quan sát hắn. Hắn sợ thực sự: y như người có mặc cảm tội lỗi. Nó không chứng minh ca này, nhưng nó khiến tôi suy nghĩ. Không phải hắn khớp với những mô tả ta có sao? Hắn cao, da sẫm, đẹp trai, chừng ba mươi. Chính xác với mô tả cái gã ta đang theo, phải không? Nhưng đây chỉ là lý lẽ. Ông có nhớ mấy cây hoa hồng của hắn không? Chỉ toàn hoa hồng và là hoa hồng đẹp. Nhớ không?”

Donovan thở ra, bực bội.

“Bông hồng của hắn thì liên can gì?”

Duncan cầm bản báo cáo anh viết lên.

“Nghe này. Đây là lời ông giữ xe. Đây là điều ông ta nói : ‘ông ta nói đây là cơn mưa đầu tiên trong mười ngày qua. Tôi bảo ông ấy nói đúng. Tôi hỏi ông ấy có trồng hoa hồng không. Ông ấy bảo, ông ấy chỉ trồng hồng. Hồng và cỏ.’  Duncan nhìn Donovan, mắt đầy vẻ chiến thắng, “Rất có ý nghĩa, phải không?

Donovan ngồi lặng trong khi bộ óc trì độn cố gắng bắt kịp tình huống bất ngờ này.

Rồi hắn vừa nói vừa nhìn Duncan, “Anh không cho nó là chứng cớ chứ?”

Duncan không sợ bị dọa dẫm. Anh biết nếu Donovan có phát hiện này, hắn sẽ đội hào quang trên đầu.

Y khẽ khàng nói, “Thằng cha này sợ cứng người; mô tả khớp và hắn trồng hoa hồng. Vậy là đủ để tôi tiến sâu hơn. Tôi muốn biết hắn chạy xe gì. Nếu là chiếc Lincoln xanh lá, tôi biết mình không cần tìm thêm gì nữa.”

Donovan nhún vai, “Nếu hắn chạy chiếc Lincoln xanh lá thì hắn chính là gã ta cần, nhưng tôi cá hắn không chạy xe này.”

Duncan đẩy ghế ra, đứng lên.

“Vậy ta đi tìm chứ nhỉ?”

Donovan miễn cưỡng nói, “Cũng có thể.”

Hai mươi phút sau, Duncan tấp xe cách nhà Ken vài trăm mét.

Anh nói. “Ta đi bộ chứ. Để hắn không biết ta đang theo dõi.”

“Ừ.”

Donovan xuống xe và hai viên thám tử đi nhanh đến trước cổng nhà Ken. Donovan băng qua bồn cỏ lâu không cắt đến gara nhỏ.

Tối đen. Không có ánh đèn nào trong nhà.

Họ đến gara. Cánh cửa đôi đã khóa. Trong khi hắn cố mở móc khóa thì Duncan đi quanh nhìn qua cửa sổ bên hông, chiếu đèn pin vào chiếc xe bên trong.

Hắn phấn khích la lên, “Chà, trung sĩ. Chiếc Lincoln xanh lá”.

Donovan tới bên hắn, nhìn qua cửa sổ.

Hắn thốt, cảm giác hân hoan chạy suốt sống lưng, “Ta vồ được hắn rồi. Cha Adams thối tha sẽ phải chảy máu mũi. Ta phá vụ án chỉ trong mười tám tiếng.”

Duncan nói, “Tôi muốn nhìn chiếc xe này”.

Donovan lại vòng qua cánh cửa móc khóa, “Ai cấm anh đâu. Trong xe ta có cái nạy lốp. Đi lấy đi”.

Hắn đứng dựa vào cửa gara trong khi chờ Duncan quay lại. Hắn nghĩ, chuyện này sẽ làm Adams run lên. Cả ngài Ủy viên cũng sẽ run.

Một cú ra trò! Hắn sẽ không viết báo cáo. Hắn sẽ gặp đích thân ông Ủy viên và báo cho ông ta. Không cần nhắc đến đóng góp của Duncan. Suy cho cùng, Duncan đã nhiều năm xếp trước hắn khi xét thăng bậc. Không cần báo cho ông Ủy viên ai đã phá vụ án này. Nếu ông Ủy viên không nói gì, coi như hắn đã giải quyết thấu đáo.

Duncan quay lại với cái nạy lốp xe. Họ bẻ khoá và mở cửa. Donovan kéo công tắc đèn, chiếu sáng gara.

Trong khi Duncan xem xét băng sau chiếc Lincoln, Donovan nhìn chỗ ghế lái.

Duncan bỗng nói, “Ta có đây rồi. Thế là giải quyết xong.”

Anh trao cho Donovan cuốn sổ dính nhiều dấu tay. Nó là cuốn sổ ghi số xe bị mất của người giữ xe.

“Trên sàn sau ghế lái. Chắc rơi khỏi túi của hắn.”

Donovan nhăn nhở cười.

“Lại còn ghi số xe của hắn trên đó nữa. Thôi thế là xong.”

“Trung sĩ. Ta đi nói chuyện với hắn.”

Hai viên thám tử bước trên lối đi. Donovan dí ngón tay vào chuông cửa. Họ chờ trong khi chuông liên tục reo, rồi Donovan thốt lên khinh bỉ.

“Hình như hắn trốn rồi.”

Duncan vòng quanh nhà, liếc qua cửa sổ. Và trở lại sau khi đi hết một vòng.

“Không thấy hắn đâu cả.”

Donovan nhìn đồng hồ. Đã gần mười giờ.

“Ta cứ bám ở đây hay hơn.”

“Hay hắn mất trí chuồn đi rồi.”

“Có lẽ. Tôi sẽ cho thông báo rộng rãi. Ta thử vào xem sao.”

Duncan không mất thời giờ để thấy cửa sổ không cài chốt. Anh trèo qua cửa sổ, ra mở cửa trước cho Donovan vào.

“Để tôi đi quanh thử xem trong khi chờ ông gọi về đồn”.

Khi Donovan gọi cho viên trung sĩ trực ban và ra chỉ thị xong, hắn vào sảnh coi Duncan làm gì.

Duncan ra khỏi phòng ngủ, cười. Anh cầm bộ đồ xám và đôi giày.

“Đây rồi, trung sĩ. Vừa lấy ra từ tiệm Gaza. Thằng cha hẳn biết cách bước lên ghế điện, nhỉ?”

Donovan gầm ghè. Hắn phát ngấy vì những thành công liên tục của Duncan.

Họ vào phòng khách, Duncan lại chỗ giỏ rác. Hắn lộn ngược giỏ trong khi Donovan nhìn, xưng xỉa.

Duncan bỗng nói, “Nó rơi ngay vào lòng tôi chứ nhỉ? Nhìn xem.”

Anh đặt hai mảnh của tấm các lên bàn.

Anh nói, “Ta về thôi. Tôi biết là tôi đúng mà. Đây là số điện thoại của Carson ghi trên mặt lưng tấm các của gã Parker. Tôi cá là Parker đã nhắn nhe cho Holland ghé nhà Carson. Ngọt như mật, phải không?”

 

 

 

 

3.

Trung úy Adams thoải mái dựa lưng vào ghế, ngáp và thấy quả là một ngày đáng nhớ. Giờ thì không còn gì phải làm ngoài việc chờ báo cáo của Donovan, và nhận ra mình đã tiến xa biết bao. Ông cũng phải chờ Darcy liên lạc với Johnny Dorman. Cho tới sáng hôm sau, ông mong không còn nhiều việc xảy ra nữa.

Ông sắp sửa rời văn phòng thì chuông điện thoại reo. Ông nhíu mày, quay lại bàn nhấc ống nghe.

Giọng nói sủa lên trong tai ông, “Trung sĩ trực đây, thưa ông. Có gã vừa đến muốn nói chuyện với sĩ quan phụ trách vụ Carson. Trung sĩ Donovan đi vắng. Ông có muốn gặp hắn không?”

Adams nóí, “Được, đưa hắn lên.” Và treo ống nghe rồi ngồi xuống sau bàn.

Chừng ba, bốn phút sau, có tiếng gõ cửa và một tay cớm ló vào, theo sau là một người đàn ông cao, da sẫm, mặt xanh xao, vẻ hốc hác làm Adams chú ý.

Ông hỏi, “Tôi giúp gì được cho anh?”

“Tôi là Ken Holland”, Ken nói như hụt hơi. Anh chờ tay cớm đi khỏi, rồi tiếp, “Tôi là người ông đang tìm. Tôi đã ở bên cô Fay Carson tối qua.”

Adams nhìn sững, rồi đẩy ghế ra, đứng lên. Trong giây lát ông ngạc nhiên đến mức không biết giải quyết tình huống bất ngờ này ra sao, nhưng ông nhanh chóng tỉnh trí.

Ông nhìn Ken chăm chú. Đúng, mô tả khớp. Tên này trông sợ hãi và bệnh hoạn đến mức không thể là giả mạo.

Ông hỏi vội, “Anh có nói với trung sĩ trực anh là ai chưa?”

Ken ngạc nhiên nói, “Chưa, sao vậy? Ông ấy không hỏi”.

Adams đã bình tĩnh lại. Ông nghĩ, một cú tuyệt diệu ! Nếu thằng ngốc Donovan mà dính vào thì mình có biết cũng đã quá trễ. Ta làm gì với gã này nhỉ? Nếu Donovan mà vồ được hắn trước khi mình nắm được Dorman thì người ta sẽ đẩy mình ra khỏi vụ này, và gã này sẽ chẳng biết chuyện gì cho tới khi hắn ngồi lên ghế điện.

Ông chỉ mất chừng một, hai giây để quyết định.

Ông hỏi nhanh, “Sao anh không đến đây sớm?”

Ken nói, “Tôi _ tôi những mong mình không bị dính vào, nhưng tôi thấy là không thể. Tôi muốn ông biết tôi không giết cô ta. Tôi muốn kể cho ông chính xác những gì đã xảy ra.”

Adams nói, “Được, nhưng đây không phải chỗ ta nói chuyện. Chuông điện thoại, người này đến, người kia đi.” Ông với lấy mũ, đội lên. “Anh đi với tôi.” Một ý cảnh giác chợt thoáng qua đầu ông, “Anh có đi xe đến không?”

Ken nhìn ông, kinh ngạc, “Tôi đi taxi”.

Adams gật đầu. Một cú hay nữa! Nếu hắn đỗ chiếc Lincoln xanh lá ngoài trụ sở, thì thằng láu cá Alec sẽ có cái mà hót đây.

Adams nói, đi xuống hành lang. “Đi với tôi.”

Ken theo ông ra đường chỗ ông đậu xe.

Adams nói, “Vào đi”.

Ken ngơ ngác, “Nhưng tôi không hiểu”.

“Sao trăng gì? Vào đi.”

Ken chui vào, Ken lái đi, đến căn hộ của ông. Ông không nói tiếng nào cho đến khi tấp vào căn nhà trên đại lộ Cranbourne.

Ông nói khi ra khỏi xe, “Tôi sống ở đây. Anh có thể nói hết mọi chuyện mà không sợ bị gián đoạn.”

Ken theo ông vào tầng trệt, một phòng khách đầy đủ tiện nghi.

Adams nói, liệng mũ lên ghế, “Cứ tự nhiên như ở nhà. Uống gì không?”

Ken nhìn thẳng mặt ông, nói, “Tôi không hiểu gì cả. Sao ông lại đưa tôi tới đây? Tôi muốn cung khai với viên chức chịu trách nhiệm về vụ sát nhân. Ông là ai?”

Adams cười khi pha hai ly chân cao.

“Tôi là trung úy Adams, phòng Điều tra án mạng. Cứ thoải mái đi. Anh chưa biết nhưng điều cuối cùng anh cần biết là muốn cung khai với viên chức chịu trách nhiệm vụ giết Carson. Mà anh ta thì chậm hiểu lắm. Giờ ngồi xuống, đừng phí thời gian nữa. Tôi cần nghe chuyện của anh, làm sao anh gặp Fay Carson, chuyện gì xảy ra tối hôm qua. Đừng vội. Tôi cần thật nhiều chi tiết càng tốt. Rồi bắt đầu đi.”

Ken cung khai. Anh kể cho Adams chuyện chiều hôm trước, không sót chi tiết nào, khi kể đến cuối, trên mặt ông trung úy bé nhỏ hiện ra vài nét khiến anh hy vọng.

Anh kết luận, “Tôi biết tôi đã xử sự rất dở, và tôi đang phải trả giá, nhưng tôi không giết cô ấy. Lẽ ra tôi phải đến ông trước, nhưng tôi nhát vía. Tôi không nghĩ gì đến mình, nhưng tôi phải nghĩ đến vợ tôi. Tôi muốn để việc này tránh xa cô ấy, nhưng tôi không biết phải làm thế nào nữa”.

Adams nhìn anh một lúc lâu, ông kéo đầu mũi tư lự.

Ông nói, “Nếu tôi có vợ, mà may là không, và nếu tôi ngốc đến mức đi với gái gọi, thì trong trường hợp này, tôi cũng sẽ hành động như anh.”

Ken nôn nóng hỏi, “Nghĩa là ông tin tôi?”

Adams nhún vai.

“Tin hay không, không thành vấn đề. Phán quyết cuối cùng là thẩm phán. Nào, ta kiểm tra lại vài chi tiết. Anh không hề nghĩ là có ai khác ngoài anh ở trong căn hộ cho tới khi đèn tắt, phải không?”

“Không nghĩ gì hết.”

“Anh không thấy gã ấy?”

“Không. Tối như mực. Tôi nghe hắn băng qua phòng, lao xuống cầu thang, nhưng tôi không có cơ hội nhìn thấy hắn.”

“Anh không nghe cô ta hét sao?”

“Có tiếng sấm. Tôi nghĩ tôi cũng không nghe được nếu cô ấy có la lên.”

Adams bắt chéo chân, hỏi, “Hừmm…Gã béo có con chó Bắc kinh, hắn hói, mũi khoằm, tai nhọn, phải không?”

Ken kinh ngạc.

“Sao, phải. Mô tả chính xác. Ông biết hắn à?”

Adams nói, “Tôi biết hắn. Anh không cần phải lo về hắn. Hắn không làm anh phải bận tâm đâu. Hắn mới ra tù sáu tháng nay. Anh quên hắn đi được rồi.”

“Ông nói hắn bịp à?”

Adams nói, nhấp cầm chừng một ngụm, “Chắc rồi. Tôi qua hắn đã thấy anh chạy lên chạy xuống. Có lẽ hắn nhìn thấy gã kia rồi. Anh có hỏi hắn không?”

Ken lắc đầu.

“Tôi không nghĩ đến.”

Adams nói dữ tợn, “Tôi sẽ hỏi hắn. Anh đã kể hết mọi chuyện chưa? Còn nhớ ra điều gì không?”

“Tôi nghĩ là không”, anh suy nghĩ một thoáng, rồi nhớ lại gã cao, cân đối, thoáng xuất hiện khi anh và Fay vừa ra khỏi quán Hoa hồng Xanh.

“Tôi để ý có một gã bên ngoài quán Hoa hồng Xanh. Có vẻ hắn sợ bị bắt gặp. Hắn cao, cân đối, đẹp trai. Khi hắn thấy tôi nhìn, hắn biến vào bóng tối.”

Adams nhíu mày.

Ông hỏi, và nghĩ đến Johnny Dorman, “Cao, cân đối, đẹp trai? Gặp lại hắn anh nhận ra không?”

“Tôi nghĩ được. Ánh sáng không rõ lắm, nhưng tôi chắc được.”

“Còn gì nữa không?”

Ken lắc đầu.

Một khoảng yên lặng dài, rồi Ken hỏi, “Trung úy, ông có tin câu chuyện của tôi không?”

“Chắc rồi, nó kết nối mọi chuyện và có ý nghĩa, nhưng đừng trẻ con tin là mình vô tội. Anh đang ở giữa vũng bùn; mà còn tệ hơn anh tưởng”.

Ken vừa định hỏi ông ta nói gì thì chuông điện thoại reo.

Adams nói và nhấc ống nghe, “Để tôi nghe máy.”

Ông ta nói vào ống thoại, “Hả, chuyện gì?”, và dựa ngửa ra ghế, lắng nghe giọng kích động trên đường dây, “Được rồi, trung sĩ. Tôi hiểu rồi. Nếu Donovan không có mặt, thì cho người nào đến đó. Rồi, tôi đến ngay.” Ông gác máy, nhìn Ken, nhăn mặt, “Liên quan đến anh đấy. Người ta vừa tìm thấy bộ đồ và đôi giày của anh ở cửa hàng Gaza. Hai anh phụ tá thông minh của tôi  cũng tìm thấy các của anh và tấm các của Parker đưa cho anh có ghi số điện thoại của Carson. Ngay lúc này, mọi anh cớm trong thành phố đang tìm anh đấy.”

Ken ngồi cứng người.

Anh kêu lên, “Nhưng họ đâu có chứng minh được tôi giết cô ta. Ông hãy tin tôi! Ông vừa nói thế mà. Ông hãy gọi họ về…”

Adams đốt thuốc, duỗi chân và lắc đầu.

Ông hỏi, “Anh Holland, anh có biết gì về chính trị không?”

“Chính trị gì ở đây?”

Ông ta ngồi lún sâu hơn vào ghế, “Mọi thứ. Tốt hơn anh nên hình dung ra tình cảnh đi. Ông chủ đứng sau chính quyền hiện hữu là một gã tên là O’Brien. Hắn định kết hôn với Gilda Dorman, một ca sĩ hát tình ca ở phòng trà. O’Brien có tiền, có quyền, có năng lực. Hắn muốn gì được nấy, không có gì ngáng đường hắn được. Hắn muốn có người phụ nữ này. Anh cô ta là Johnny Dorman, là người yêu của Fay Carson trước khi bị đưa vào bệnh viện tâm thần. Y thoát ra ngày hôm qua. Y là kẻ giết Fay Carson. Tôi không thể chứng minh nhưng tôi cá đến đồng xu cuối cùng hắn chính là thủ phạm. O’Brien không thích y ngồi ghế điện vì tội giết người. Hắn có thể bao che cho y và hắn có khả năng làm được. Hắn sẽ tìm một gã thế thân, gã đó chính là anh.”

Ken nhìn ông.

Anh ngơ ngác nói, “Hẳn ông đùa.”

“Không đùa đâu. Chẳng mấy nả anh sẽ thấy. Điều O’Brien nói sẽ diễn ra trong thành phố này. Trung sĩ Donovan sẽ đảo ngược báo cáo. Ông Ủy viên sẽ trao nó tận tay cho O’Brien. Họ sẽ có đầy đủ bằng chứng chống lại anh. Các bằng chứng có lợi cho anh sẽ bị xóa. Họ có đầy đủ để cho anh lên ghế điện ngay bây giờ.”

Cảm giác kinh hoảng dâng trào ôm ghì lấy anh.

Anh giận dữ nói, “Vậy tại sao ông nói chuyện này với tôi? Sao ông không xông lên bắt tôi đi? Ông là cảnh sát viên mà. Sao lại đưa tôi đến đây?”

Adams vắt tréo chân rồi duỗi ra, “Tôi lại tình cờ ở về phe đối nghịch. Tôi mà thò đầu ra thì tôi là thằng khùng, nhưng sự thể là như thế. Nếu tôi rút được tấm thảm dưới chân O’Brien thì tôi đã làm rồi. Tôi nghĩ ra một cách thông qua anh. Nếu tôi chứng minh được gã Dorman này giết cô Carson, tôi sẽ buộc được O’Brien đưa tay ra. Em gái Dorman sẽ gây áp lực với O’Brien, và hắn sẽ có động thái sai lầm. Tôi muốn người của tôi săn anh trong khi tôi săn O’Brien. Đó là lý do tôi đưa anh đến đây. Nhất thiết họ không bắt được anh trước khi tôi bắt được hắn. Tôi muốn Lindsay Burt quan tâm đến anh. Hắn sẽ trông chừng anh nếu tôi thuyết phục được hắn là anh trong vòng an toàn. Nhưng anh sẽ phải kiên nhẫn. Sẽ mất vài ngày, không chừng vài tuần. Ở đây, anh an toàn, nhưng đừng thò mặt ra phố. Người của tôi làm việc rất hiệu quả. Họ đang săn anh, và họ sẽ tìm thấy anh nếu anh lộ mặt.”

Ken lo lắng nói, “Nhưng vợ tôi sẽ sớm về nhà. Tôi có việc phải làm. Ông đừng mong tôi…”

Adams dơ tay.

“Chờ chút. Tôi đã bảo anh rồi: anh đang ở trong bãi lầy. Vợ anh với công việc của anh không quan trọng. Anh phải nghĩ tới cuộc đời anh. Nếu họ mà vồ được anh, anh đi đứt, đừng quên điều này.”

“Chuyện hoang đường! Giả sử ông không tìm thấy Dorman? Chuyện gì xảy ra cho tôi?”

“Ta sẽ nghĩ về chuyện đó vào lúc thích hợp.”

“Còn vợ tôi?”

Adams dốc cạn ly rượu, đặt xuống, “Lẽ ra anh nên nghĩ về chuyện đó trước khi đánh đu với Fay Carson. Bây giờ thì, thoải mái đi. Cứ ở yên đây. Tôi sẽ quay lại trụ sở. Tôi muốn xem bọn họ đang làm gì.”

Ken nói, “Tôi quên nói với ông tôi đã thấy Gilda Dorman ở quán Hoa Hồng Xanh đêm ấy. Ông có biết chuyện cô ta và Fay Carson có thời từng chung nhau căn hộ không?”

Adams đội mũ.

“Tôi không biết. Nhưng tôi không thấy có liên can gì đến vấn đề của ta. Anh cứ nghỉ ngơi. Để việc này cho tôi.”

Ken khó nhọc nói, “Tốt hơn tôi nên gặp luật sư.”

“Có dư thời gian để gặp luật sư. Nghỉ ngơi đi, không được à? Ở đây anh an toàn. Lại giường nằm đi. Căn phòng nhỏ này ăn thông tới cửa đó. Tôi phải đi thôi.” Adams vừa nói vừa gật đầu, rời khỏi căn hộ.

Ken đứng dậy ra cửa sổ ngó ông trung úy lái xe đi. Đầu óc anh quay cuồng. Tình thế không tưởng tượng nổi. Anh rồi bời nghĩ Adams chỉ sử dụng anh như con tốt thí trong bàn cờ chính trị. Nếu ván bài kết thúc, mọi thứ đều ổn, nhưng nếu không, Adams sẽ phủi tay.

Anh nghĩ đến Ann đang trở về gian nhà trống. Anh không thể ở trong căn nhà này một cách vô lý được. Cách tốt nhất là tham vấn một luật sư giỏi nhất và phó mặc mọi thứ cho ông ta.

Anh đang rán nghĩ coi nên chọn ông luật sư nào thì chuông điện thoại reo. Anh lưỡng lự rồi nghĩ biết đâu Adams báo cho anh biết chuyện ở đồn nên nhấc ống nghe.

Một giọng vang, trầm, thì thào bên tai, mà anh nhận ra ngay là Sam Darcy, “Ông đấy à, Trung úy?”

“Trung úy đi vắng. Chắc ông ấy ở đồn.”

Yên lặng một lát, rồi Darcy nói, “Anh nhận tin nhắn được không?”

“Chắc là được”.

“Vậy báo ông ấy có người thấy một gã giống Johnny Dorman trên tàu của Tux, chiếc Mũi Cây Liễu. Người của tôi chỉ thoáng nhìn qua thôi, hắn không chắc đó là Johnny Dorman.”

Ken cảm nhận cơn phấn khích chạy dọc sống lưng.

“Tôi sẽ báo.”

“Tàu neo ở cửa sông. Ông ấy biết chỗ .”

Ken nói và gác máy, “Vâng”.

Anh đứng suy nghĩ một lúc lâu, rồi gọi đến đồn cảnh sát.

Anh nói với trung sĩ trực, “Cho tôi trung úy Adams”.

“Ông ấy không có ở đây. Ai gọi đó?”

“Ông ấy đang trên đường đến. Ông ấy chưa đến sao?”

“Có đến nhưng đi nữa rồi. Có gì không?”

Ken gác ống nghe.

Giả sử Dorman rời tàu trước khi anh có thể báo cho Adams nơi hắn ở? Nếu muốn thoát vũng lầy này, anh phải tự giúp chính mình.

Anh phải đến bờ sông canh chừng chiếc tàu và chờ Adams đến.

Anh đến bàn giấy Adams, viết tin nhắn của Darcy, thêm rằng anh đang cố đi tìm chiếc Mũi Cây Liễu, và hối Adams đến càng sớm càng tốt. Để tin nhắn trên bàn, anh vớ lấy mũ, rời căn hộ. Anh cẩn trọng mở cửa trước.

Mưa đang rơi, bóng tối ẩm ướt làm anh thấy vững bụng. Xuống hết cầu thang, anh quẹo trái, bước thật nhanh về hướng bờ sông.

 

 

 

 

Phần II

Chương VI

1.

Sean O’Brien gõ cửa phòng phục trang của Gilda, chờ một chút rồi xoay nắm cửa, bước vào.

Gilda đang thay đồ. Cô vơ vội áo choàng, rồi đổi ý khi thấy O’Brien, bước nhanh lại gần hắn.

O’Brien vừa nói vừa cười, “Xin lỗi, đáng lẽ anh nên chờ lâu hơn chút nữa.”

Cô hỏi, đôi mắt to xanh tối lại vì lo âu, “Ổn cả chứ, Sean?

Hắn ôm lấy cô, “Dĩ nhiên. Em nên khóa cửa. Ai cũng có thể vào.”

“Em tưởng đã khóa. Có chuyện gì không, Sean?”  Cô đi lại bàn phấn trong khi hắn ngắm cô, nghĩ thầm cô đẹp biết bao.

“Manchini sẽ không làm phiền em nữa. Anh đã đe cho nó sợ, và nó sợ nhanh lắm.”

Cô khoác bộ dạ phục khiến cô, trong mắt O’Brien, còn quyến rũ hơn là khi mặc trang phục loè loẹt của câu lạc bộ.

Cô nói khi đi lại bàn phấn ngồi xuống, “Em không biết phải làm sao nếu không có anh?”

Hắn cười.

Hắn lấy điếu xì gà trong hộp, ngồi xuống, từ tốn gỡ dải băng trên điếu thuốc, “Đêm qua Manchini có thấy Johnny không?”

“Hắn nói vậy nhưng em không tin. Hắn tìm cách làm em sợ để cho hắn vào căn hộ của em.”

“Thế em không nghĩ hắn cho Johnny địa chỉ của Fay sao?”

Cô do dự rồi quay lại đối diện hắn.

“Em biết là hắn không. Anh yêu, tha lỗi cho em, em đã không kể sự thật với anh về Johnny. Em có gặp anh ấy tối qua. Anh ấy ở căn hộ của em khi em từ Casino về. Anh ấy sợ anh, Sean à. Anh ấy sợ anh bắt em phải đưa ảnh về nhà thương điên. Anh ấy bắt em hứa không được cho anh biết em có gặp anh ấy. Em đã nói đi nói lại nhiều lần anh đâu có bắt ảnh phải vào nhà thương điên, mà ảnh đâu có tin. Ảnh ở nhà em cả đêm. Vì vậy mà em biết ảnh không thể giết Fay được.”

O’Brien gật đầu, thầm nghĩ sao cô ta cứ tiếp tục dối hắn?

“Em bé, đáng lẽ em phải nói trước với anh. Không sao. Hắn còn ở chỗ em không?”

“Không. Ảnh đi rồi. Em rất lo. Ảnh không nhắn lại gì hết. Chỉ là ảnh biến mất thôi. Không phải cảnh sát đã bắt anh ấy chứ?”

O’Brien lắc đầu.

“Dĩ nhiên không. Nếu có anh đã biết. Thư giãn đi, em bé. Có lẽ anh ấy quyết định ra khỏi thành phố rồi. Không phải em có nói ảnh định đi New York sao?”

“Ảnh có nói, nhưng làm gì có tiền. Cái đó làm em lo. Ảnh không thể đi New York…”

“ Sao em biết được nhỡ ảnh mượn tiền của ai đó? Anh ta luôn là kẻ cơ hội mà. Đừng lo cho ảnh. Ảnh tự lo được. Đi ăn tối với anh đi.”

“Sean, tối nay không được. Em muốn về nhà. Lỡ ra ảnh quay lại.”

O’Brien nhún vai hài hước.

“Được thôi. Em có muốn đi cùng anh không?”

“Em muốn đi một mình.”

“Em nói sao cũng được, em bé.”

Hắn ra khỏi ghế, trao cho cô cái áo choàng.

“Để xem anh có tìm được gì không. Nếu có tin của ảnh, anh sẽ gọi cho em.”

“Sean, anh tốt với em quá.”

Cô ngước mặt để hắn hôn cô.

“Nhiệm vụ của anh là làm điều tốt đẹp cho em.”

Khi cô đã lên taxi đi rồi, hắn chầm chậm đến chỗ đậu xe, chui vào chiếc Cadillac, nhìn trân trân vào bóng tối.

Johnny là một mối lo. Y lúc nào cũng là mối lo. Dù cho có may mắn thoát ra khỏi đống phân này, thì vẫn còn những đống phân khác. Sớm muộn gì y cũng sẽ vướng vào rắc rối mà O’Brien không giải quyết nổi. Một thằng anh rể như Johnny thật khốn nạn. Giờ hắn đã giữ Johnny ở nơi hắn muốn, không giải quyết được y một lần cho xong thì hắn là thằng đần.

Hắn suy nghĩ rất lung, nghĩ đến cái ý rũ bỏ Johnny là hay nhất. Và càng nghĩ, hắn càng thấy cái ý này hấp dẫn.

Trong quá khứ, O’Brien chưa bao giờ do dự khi rũ bỏ những kẻ gây rối, nhưng hắn không có thói quen phủi sạch kẻ thù. Hắn cho Tux đá văng Paradise Louie thay vì đấm vỡ mặt. Cuộc sống ẩn dật, lặng lẽ suốt ba năm qua khiến hắn mềm lòng, hắn nhăn mặt nghĩ vậy. Hắn biết Lindsay Burt sẽ tìm cách kiếm lời từ vụ giết Carson. Ai đó trong nhóm của hắn sẽ nhớ ra Johnny đã từng đe dọa Fay, biết Johnny là anh Gilda, Gilda thì sắp lấy O’Brien, ông Ủy viên sẽ bị áp lực phải tìm ra Jonny.

Hơn nữa, O’Brien không có ảo tưởng gì về Johnny. Ngay khi thành anh rể hắn, y sẽ chỉ biết có tiền. Các an toàn nhất là làm sao cho Johnny không trở thành mối họa lớn hơn hiện tại.

O’Brien, đốt xì gà, mở máy xe, lái đến câu lạc bộ Đồng quê.

Ngày đầu mỗi tháng có khiêu vũ ở câu lạc bộ, và ai cũng có thể đến. O’Brien đoán chừng ông Uỷ viên Howard và Đại úy Cảnh sát Motley sẽ có mặt. Hắn muốn biết tin giờ chót về vụ sát nhân trước khi có quyết định cuối cùng về Johnny.

Hắn nhìn thấy đám đông khiêu vũ qua những cửa sổ lớn khi lái xe chạy vòng quanh. Cuộc khiêu vũ kéo dài mãi tận khuya, rất nhiều rượu, rất nhiều ôm ấp, có cả những trò quá trớn của những người trẻ tuổi.

O’Brien không quan tâm tới những trò ăn chơi này, nhưng hắn vẫn tỏ ra thích thú. Mọi hội viên đều đến, và đó là cơ hội để trò chuyện riêng tư mà không bị báo chí để ý.

Hắn lái xe vào bãi đậu, đã nêm chặt những xe. Hắn bước ra, ngước nhìn những đám mây tối sầm, đẫm nước. Hắn nghĩ, khi len lỏi đi giữa những chiếc xe, trời sẽ mưa rất lâu.

Hắn để ý một người đàn ông và một phụ nữ ở phía trước. Người phụ nữ để cửa xe mở. Hắn nghĩ mình biết người này, và dừng lại chăm chú nhìn.

“Nếu anh mà cư xử như thằng chó chết, thì tôi sẽ quay lại đấy”, người đàn bà nói giọng the thé, giận dữ. Giọng say rượu nói với O’Brien.

Người đàn ông lo lắng nói, “Gloria, tỉnh lại đi. Chồng em sắp ra đấy. Ta không thể chờ cho ông ta đi à?”

“Chờ cái chó gì?” người phụ nữ nói, và chui vào băng sau xe. “Anh có vào không?”

Gã đàn ông vào ngồi cạnh cô ta và sập cửa lại. O’Brien thấy người đàn bà quàng tay quanh người gã, kéo gã lại, gã hơi nhăn mặt. Hắn nghĩ, cô vợ trẻ của ngài Ủy viên Howard và một tên rác rưởi. À, lão già ngốc không nên lấy cô vợ bằng nửa tuổi mình như thế.

Hắn bước đến tòa nhà câu lạc bộ.

Hắn thấy Ủy viên Howard và Motley ở hàng hiên.

Motley đang nói, vẻ nóng nảy, “Vì lòng yêu Mike, hãy để cô gái một mình. Cô ấy đang hưởng thụ một chốn vui. Nếu muốn đi, ta sẽ đi.”

O’Brien nói, bước ra khỏi bóng tối, “Đã đi rồi sao?”

Motley quay lại, nói, “Chào. Tôi có tin cho anh đây. Donovan đã phá được vụ án Carson.”

O’Brien nhướng mày, “Nhanh nhỉ.”

“Phải. Tôi đã nói nếu giao cho Donovan một vụ ra trò, hắn sẽ chứng tỏ hắn làm được gì. Trong một hai giờ nữa, hắn sẽ thực hiện lệnh bắt giam.”

“Ai vậy hử?”

“Kenway Holland, thư ký trẻ ở nhà băng. Đây là vụ án có mở có đóng. Chúng tôi có đủ bằng chứng cho hắn lên ghế điện gấp ba tội hắn”.

“Nhưng ông chưa giam hắn à?”

“Người của tôi đang đến nhà hắn. Chắc hắn sợ mất vía nên chuồn, nhưng vồ được hắn chỉ còn là vấn đề thời gian.”

“Làm được việc quá,” O’Brien nói mà không để lộ cảm xúc, rồi nhìn Howard, “Ông sẽ cho tôi xem báo cáo và bằng chứng chứ?”

“Anh sẽ có hồ sơ sáng mai”, Howard nói cộc lốc. Ông tỏ ra lo lắng, và thấy vợ mình đã gây chuyện gì, O’Brien không ngạc nhiên. “Xin lỗi, tôi phải trở lại trụ sở. Mọi chuyện tiến quá nhanh nên tôi không muốn bỏ lở chuyện gì.”

Motley nóng nảy nói, “Tôi đã nói với ông cứ để cho Donovan giải quyết mà”.

Howard quát, “Tôi sẽ quay lại dù anh không muốn”, rồi gật đầu với O’Brien, xuống thang ra chỗ đậu xe.

O’Brien nhẹ nhàng nói, “Em gái ông đang đùa giỡn với một gã trong xe. Coi chừng đừng để ông Ủy viên nhận ra.”

Motley thở ra, chửi thề.

Ông ta nói, “Ngày nào đó, tôi sẽ vặn cổ con chó cái này. Sao mà nó không chịu chờ cho Howard đi đã kia chứ?”. Ông ta vội đi theo ông Ủy viên.

O’Brien chà cằm tư lự. Hắn nghĩ, giống như thằng đầu bò Donovan tìm sai người rồi. Họ đang nói về cái chứng cớ nào? Hình như họ rất chắc ăn đã có đủ để kết án gã này.

Hắn dựa vào lan can hàng hiên và vẫn đang suy nghĩ về Johnny. Nếu gã Holland này bị bắt, bị kết án, thì Johnny sẽ thoát, nhưng sớm muộn gì y cũng vướng vào chuyện rắc rối. Giờ hắn đã khóa được y, và chìa khóa thì đang bay dưới gương mặt thượng đế đã không rủ bỏ y.

 

 

2.

Trước khi đến văn phòng, Adams nhìn vào phòng trực ban.

Ông hỏi trung sĩ trực, đang tỏ ra chăm chú khi thấy ông, “Có gì mới không?”

Viên trung sĩ nói, “Thưa ông, ông Ủy viên và Đại úy đang trên đường tới, gã Holland vẫn chưa bị bắt. Ta đã có hai người và thám tử Duncan đang ở nhà hắn. Trung sĩ Donovan vừa đến và đang đợi ông Ủy viên.”

Adams càu nhàu.

Ông nói, “Nếu ông Ủy viên cần thì tôi ở trong văn phòng. Còn gì không?”

“Thưa không liên quan tới ông. Paradise Louie vừa được nhặt lên ở lô đất trống trên Đường Tây. Có ai đó chăm sóc cho gã. O’Sullivan, người tìm thấy gã báo cáo là gã không thiết sống nữa. Hắn bị đập, và đập hơi nặng tay.”

Adams nhớ lại điều Darcy đã nói với ông. Paradise Louie đã bảo Johnny nơi hắn có thể tìm được Fay Carson và giờ thì hắn bị đập. Trùng hợp chăng?

Ông hỏi vội, “Hắn ở đâu?”

Viên trung sĩ nói, “Khu Sáu, bệnh viện của Hạt.”

Adams nói và chạy nhanh ra xe, “Báo với ông Ủy viên nếu ông ấy cần, tôi sẽ trở lại trong một tiếng nữa.”

Ông đến bệnh viện Hạt trong năm phút.

Bác sĩ phẫu thuật nói khi ông hỏi có thể nói chuyện với Louie không, “Machini à. Không hy vọng gì. Sọ ông ta mỏng bất thường. Ai đó đập ông ta bằng dây xích xe đạp. Chắc chỉ lây lất qua đêm nay thôi.”

“Hắn tỉnh không?”

“Không. Nhưng có thể tỉnh bất cứ lúc nào. Người của ông đang ở bên hắn. Ông cứ lên nếu muốn. Chúng tôi không làm gì được nữa.”

Paradise Louie nằm trên giường, bộ mặt bầm tím và nát bét của hắn băng bó chằng chịt. Thám tử Watson ngồi rầu rĩ bên cạnh. Hắn vội đứng dậy khi thấy Adams, suýt lộn ngược mũ.

Adams hỏi, “Hắn tỉnh không?”

“Thưa, tỉnh. Nhưng tệ lắm.”

Dasm cúi xuống thân hình bất động.

Ông sủa và lay Louie, “Louie ! Dậy đi !”

Louie mở mắt nhìn Adams.

Hắn càu nhàu yếu ớt, “Để tôi yên không được sao? Cút ra khỏi đây.”

Adams ngồi bên cạnh giường.

Ông nói, “Ai đánh anh vậy?”

Watson mở sổ tay, háo hức chờ.

Louie nói, “Tôi không nói, anh cớm. Để tôi yên.”

Adams lấy hộp diêm ra, quẹt một que quơ sát tay Louie trong khi Watson trố mắt nhìn.

Louie co tay lại, môi nhếch lên hở cả răng.

Adams nói khẽ, “Lần sau tôi sẽ dí vào cổ tay anh. Ai làm?”

Bộ mặt  mỏng, tàn nhẫn dí sát làm Louie kinh hãi.

Y lúng búng, “Tux và Whitey. Để tôi yên , không được à?”

“Sao chúng làm thế?”

“Tôi không nhớ”, Louie nói và vội tiếp khi thấy Adams quẹt một que diêm nữa, “ Được rồi, được rồi. Tôi sẽ nói.”

Hắn cho Adams biết cách hắn xuống nước để tống tiền Gilda. Hắn ngưng vài phút, nhưng Watson đã ghi vào sổ sau khi Adams ép hắn tiếp tục.

Adams hỏi, “Anh có cho Johnny biết địa chỉ của Fay Carson không?”

“Tôi có bảo hắn chỗ tìm được cô ta.”

“Là ở đâu?”

“Tôi bảo hắn đêm nào cô ta cũng đến quán Hoa hồng Xanh.”

“Anh không cho hắn biết địa chỉ cô ta sao?”

“Tôi không biết chỗ ấy.”

“Anh nói với hắn lúc mấy giờ?”

“Chừng mười một giờ, khoảng đó.”

Adams nói, ý thức được ông vừa có một phát hiện quan trọng, “Vậy là Tux làm việc cho O’Brien”.

“Phải, O’Brien luôn là ông chủ của nó.”

Adams nhìn Watson, “Hiểu hết không?”

“Thưa, hiểu”.

“Louie, anh phải ký vào đây.”

Ông đọc lại lời khai của Louie cho y nghe, giữ cuốn sổ trong khi Louie nghệch ngoạc ký trên từng trang, rồi ông bảo Watson cũng ký vào.

Ông nói với Watson khi nhét cuốn sổ vào túi, “Tôi giữ nó. Rồi, anh không cần phí thời gian với tên rác rưởi này nữa.”

Ra ngoài đường, ông tiếp, “Watson, giữ mồm miệng về lời khai này đấy. Trò chính trị là trò lừa đảo. Hiểu chưa?”

“Thưa, vâng.” Watson ngơ ngác nói. Anh không hiểu nhưng từ lâu anh đã biết hỏi thêm Adams là không an toàn.

“Được rồi. Đi với tôi. Tôi có việc cho anh.”

Ngạc nhiên, Watson theo chân Adams xuống thang, băng qua đường, vào xe ông.

 

 

 

3.

Mất bốn mươi phút Ken mới tới bờ sông. Ken sợ đi xe buýt hay taxi. Adams đã nói tất cả cớm trong thành phố đang săn tìm anh, và anh sẽ không để ai nhận ra anh.

Anh theo đường ngang lối tắt, bám sát các tòa cao ốc và các cửa hiệu, những nơi tối nhất.

Thỉnh thoảng nhận ra có xe tuần tiễu chạy phía trước, là anh ngoặt vào hẽm để xe không vượt qua anh.

Và khi đã tới được bờ sông, mưa đang bắt đầu ngớt hạt.

Bên bờ nước, trời tối nhờ nhờ, ẩm ướt và bốc mùi. Dọc đường là những quán cà phê, xe bắp rang, những tiệm bán lưới và đồ đi câu, một khách sạn bẩn thỉu và một mái vòm có trò chơi giải trí.

Ken đứng ở cầu cảng, nhìn ra mặt nước rộng đầy dầu nhớt đến cửa sông ngoài xa. Trời tối quá không nhận  được có con tàu nào bỏ neo ngoài đó, nhưng Darcy đã nói có con tàu Mũi Cây Liễu  buông neo, và Ken không có lý do gì để không tin.

Anh phải tìm con thuyền nào đưa anh ra. Anh còn ít tiền và phải dè xẻn từng đồng trước khi xong việc. Anh không đủ tiền để thuê nhưng có thể mượn.

Nhưng trước khi đi tìm thuyền, anh phải biết rõ chiếc Mũi Cây Liễu buông neo ở đâu.

Anh nhìn mái vòm sáng trưng, rồi chầm chậm băng qua con đường ẩm ướt, liếc vào.

Có vài người trẻ tuổi đang chơi banh bàn. Một cô gái áo khoác trắng dơ bẩn đứng dựa vào bàn banh, đang dũa móng tay dài. Mặt cô trắng bệch, mệt mỏi; một đứa trẻ chừng mười tám, già đời vì kinh nghiệm và tội lỗi nếu nhìn qua vẻ ngoài đanh đá. Cái túi da đựng tiền thối đeo bên vai.

Anh bước vào vòm, đứng cạnh bàn, bắt đầu chơi, bắn banh vào luồng, nhìn ánh đèn nhiều màu chớp sáng khi banh đụng tiêu điểm.

Đi hết một hàng banh, anh dừng lại hút điếu thuốc, và biết cô gái đang tò mò nhìn anh.

Anh bắt gặp đôi mắt xanh, riềm mi thẫm, anh mỉm cười.

Anh nói, “Cách để cho qua một tiếng đồng hồ, phải không?”

Cô nhún vai, lãnh đạm.

“Không ai hỏi anh làm gì hết.”

Anh rời máy, lại gần cô.

Anh hỏi, “Cô có biết mấy con tàu bỏ neo ở cửa sông không, tôi muốn tìm chiếc Mũi Cây Liễu.”

Cả ngạc nhiên và nghi ngờ hiện trong mắt cô.

Cô nói, chùi tay gãi, “Tôi có cản anh đâu?”

“Cô có biết nó neo chỗ nào không?”

“Có lẽ biết. Sao?”

Anh kiên nhẫn nói, “Tôi muốn tìm nó.”

Cô nói, dựa hông vào máy banh bàn, “Có chắc không, anh chàng đẹp trai? Anh có biết ai là chủ Mũi Cây Liễu không?”

Anh lắc đầu.

Cô nói, “Tux đấy. Hắn là gã anh muốn tránh xa.”

Ken nói, “Tôi phải tìm con tàu”.

Cô ngắm nghía anh.

“Coi nào, chàng đẹp trai. Anh về nhà có tốt hơn không. Anh sẽ dính vào rắc rối nếu anh dầm mình với Tux.”

Ken nói, “Tôi có đủ rắc rối rồi.”

“À, tôi thì không muốn”, và cô bỗng đi ra thối tiền cho một tên mập đang nóng nảy gõ trên mặt kiếng bàn đánh banh.

Ken đốt thuốc, trở lại bàn của mình, nhìn cô gái bằng khóe mắt.

Cô đi loanh quanh trong vòm, và năm phút sau cô chầm chậm lại chỗ anh đứng.

Cô đứng tì vào bàn trong khi anh đang chơi, dũa móng tay với chiếc dũa gỗ.

Ken nói nhỏ, “Cô không giúp tôi sao? Cô không cho biết chỗ chiếc Mũi Cây Liễu à?”

Cô khẽ rùn vai.

“Lần sau cùng khi tôi thấy thì nó neo ở Mũi Bắc.”

“Cũng như không. Tôi đâu biết gì con sông này. Bao xa?”

“Nửa dặm. Mũi Bắc là ánh đèn anh nhìn thấy từ cầu cảng”.

Anh ngước lên, mỉm cười.

“Cám ơn.”

Cô lắc đầu.

“Anh đang đâm đầu vào rắc rối đấy, chàng đẹp trai. Tux rất hắc búa.”

Anh bắn một trái banh rồi nói, “Tôi cần có thuyền, nhưng không đủ tiền. Tôi muốn lên chiếc Mũi Cây Liễu.”

Cô hỏi mà không nhìn anh, “Vậy chớ anh muốn tôi làm gì? Ăn cắp dùm anh à?”

“Tự tôi sẽ lấy nếu tôi biết chỗ nào lấy được.”

“Tux có biết anh đến không?”

Ken lắc đầu.

“Anh là hàng nóng à? Cớm phải không?”

“Đại loại vậy.”

“Anh có thể tìm thuyền ở dưới cầu tàu. Chủ thuyền thường đi lúc sáng sớm, vậy anh nên trả lại trước giờ đó.”

Ken nói, “Cám ơn.”

“Cẩn thận đấy. Tux không ưa khách bất ngờ đâu. Y rất khó chơi”.

Ken nói, “Tôi sẽ cẩn thận”, và bước vào cơn mưa phùn.

Anh thấy con thuyền bẩn thỉu cột dưới cầu cảng. Một cần câu, hộp mồi, giấy dầu, mái chèo nằm ở đáy thuyền. Anh nhảy xuống thuyền, đẩy nó ra và chèo về phía ánh đèn xa xa, nơi cô gái bảo là Mũi Bắc.

Hình như anh đã chèo rất lâu rồi thì anh nhìn thấy hình dáng lờ mờ con tàu đi biển, nổi lên trên đường chân trời tối sẫm.

Ken ngừng chèo, nhìn và thầm nghĩ không biết có phải chiếc Mũi Cây Liễu không. Đang ngồi trên con thuyền nổi bềnh bồng, anh nghe tiếng động cơ xuồng máy ở xa. Anh vội nhìn lên bờ nước, cách nửa dặm.

Một chiếc xuồng máy cực mạnh đang rời cầu cảng. Nó hướng về phía anh. Anh nghi ngại không biết có phải tàu cảnh sát. Anh chèo xa đường đi của xuồng máy, vừa chèo anh vừa ngồi rùn xuống để đầu và vai không nổi lên đường chân trời.

Anh lo lắng nhìn chiếc xuồng máy đang tới gần.

Nó tiến tới rất nhanh, nhưng anh thở phào khi thấy nó cách anh chừng ba, bốn trăm mét rồi đổi hướng.

Con tàu rồ máy vượt qua anh, sóng xô dạt làm thuyền anh lắc dữ dội.

Anh nghe tiếng máy dừng đột ngột. Chiếc xuồng máy biến mất bên hông con tàu đi biển.

Ken vươn người, chụp mái chèo, chèo đi. Mất mười phút để đến cách con tàu non bốn chục mét. Anh dừng chèo để thuyền trôi tự do, nhìn lên boong tàu xem có dấu hiệu của sự sống không.

Anh nhận ra xuồng đã được buộc vào tàu. Anh không thấy ai trên boong, anh lại chèo đến khi cập mạn tàu. Anh nhìn lan can trên boong và lắng nghe.

Anh tưởng mình nghe có giọng nói mơ hồ, và anh nghĩ có liều không nếu leo lên boong. Nếu có ai lên boong, họ sẽ thấy thuyền của anh. Anh quyết định không liều.

Chèo nhẹ và chậm, anh qua đuôi tàu rồi tới mạn trái.

Một ô cửa bên mạn trái sáng đèn, và khi thuyền đang trôi nhẹ, anh nghe tiếng nói từ ô cửa, “Đây là lúc nói chuyện thẳng thắn, Johnny. Anh không có tư cách để ra điều kiện. Hoặc chấp nhận điều kiện của tôi, hoặc ở lại đây tới khi đổi ý”.

Ken chèo nhẹ dọc con tàu, gác mái chèo, cẩn thận để không va mạnh vào hông. Anh nắm lấy móc sắt gần ô cửa, kềm chắc thuyền khi đứng lên nhìn nhanh vào cabin.

Gã đẹp trai, cân đối, cao ráo anh đã thấy ở quán Hoa Hồng Xanh đêm hôm trước đang nằm ườn trên giường đối diện anh. Một gã khác cao, da sẫm mặc bộ đồ cắt rất khéo đứng dựa tường, hút xì gà.

Ken lùi nhanh, giữ vững thuyền, lắng nghe những gì đang nói.

 

 

 

4.

Solly bắt lấy sợi dây thừng O’Brien liệng cho y, giữ xuồng đứng yên khi O’Brien leo lên boong.

O’Brien hỏi vội, “Tux ở đây hả?”

“Vâng, xếp”, Solly ngạc nhiên thấy O’Brien tự trèo lên.

“Nó đâu?”

Tux ló ra khỏi bóng tối, cài nút áo sơmi. Hắn đang ngủ, nhưng tỉnh dậy khi nghe tiếng xuồng máy và vơ quần áo mặc vội.

O’Brien cộc lốc nói, “Tao cần mày.”

Tux đi trước xuống thang, dọc theo lối đi sáng lờ mờ đến cabin của hắn. Hắn ngồi xuống giường, cố nén cái ngáp, tò mò nhìn O’Brien.

O’Brien hỏi, “Mày đã giải quyết Louie?”

Tux nói, hơi khó chịu, “Chắc rồi. Whitey đập nó mạnh quá”.

O’Brien nhìn hắn, mắt ngụ ý.

“Nghĩa là gì?”

Tux chống chế, “Tôi không chắc Louie có thấy khoẻ không. Đầu nó giống vỏ trứng”.

“Nghĩa là nó chết rồi?”.

Tux so vai.

“Có thể lắm. Nó đổ nhiều óc”.

O’Brien chà cằm.

Hắn nói, lấy ra điếu xì gà, cắn một đầu, “Chuyện này ra ngoài dự liệu. Louie mà ngỏm chắc cũng tốt”.

Tux nhẹ nhỏm.

“Nó mà không chết tôi cũng ngạc nhiên đấy”.

“Ta đâu muốn chuyện thú tội trên giường bệnh”.

“Lúc chúng tôi đi hắn không nói gì được nữa”.

O’Brien đốt xì gà, thổi khói lên trần và tư lự nhìn Tux. Hắn nghĩ, đây chỉ mới bắt đầu. Sau bốn năm mọi chuyện lại khó nhằn. Xong rồi, không thể giúp được nữa. Hắn phải nắm quyền kiểm soát, hiện trạng, và nếu mấy tên này là mối lo thì chúng sẽ được gặp rắc rối.

Hắn hạ giọng, “Tao muốn rủ bỏ Johnny”.

Tux ngạc nhiên, nhưng không lộ ra.

“Bất cứ chuyện gì cũng được, xếp”.

O’Brien tiếp, “Tao muốn chỗ nào để không ai tìm ra nó. Không bao giờ để người ta thấy nó nữa”.

Tux nói, “Tôi làm được. Tôi có cái thùng trên boong vừa với nó. Có đủ xi măng nữa. Không ai tìm ra nó đâu”.

O’Brien gật đầu.

“Tux, mày không được lơi lỏng việc này. Tao đi nói chuyện với nó ngay bây giờ. Tao sẽ cho mày biết khi nào làm”.

“Tối nay?”, hắn hỏi mà nghĩ đến chuyện thiếu ngủ.

“Chắc là tối nay. Mày chuẩn bị thùng và xi măng đi”.

“Để tôi bảo Solly”.

O’Brien vội nói, “Mày tự làm đi. Để Solly ra ngoài. Tao sẽ đưa nó về với tao. Tao không muốn nó biết gì hết. Chỉ tao với mày biết thôi, Tux”.

Tux nhăn mặt.

“Cái thùng này nặng kinh lắm. Tôi không làm một mình được. Tôi phải có Solly”.

O’Brien lấy điếu xì gà ra khỏi miệng, nhìn đầu lửa đỏ, rồi nói, “Tùy mày thôi. Nhưng nếu có Solly, mày phải coi chừng nó. Nó sẽ phải đi theo thôi”.

Tux rất thích Solly. Nó khoẻ như trâu và nhanh như rắn chuông.

Y nói, “Nó sẽ ngậm miệng. Ông không phải lo về nó”.

O’Brien nhìn y, vẻ đe dọa không che dấu, “Nếu mày không làm theo cách của tao, thì tùy đấy.”

Tux nhìn hắn, nhún vai, “Được rồi. Tôi có cách mà”.

“Mày nên làm như đó là công việc đi”.

“Tôi sẽ làm như công việc”.

O’Brien đứng dậy, mở cửa cabin, vào hành lang. Hắn tới cabin của Johnny, xoay chìa, đẩy cửa ra, bước vào.

Johnny đang thiu thiu ngủ. Hắn mở mắt, chớp chớp, ngồi lên.

O’Brien nói khẽ, “Chào Johnny”.

Hắn nhìn khuôn mặt bầm tím của Johnny vẻ hài lòng. Đã đến lúc có người đẩy đống rác này đi, hắn nghĩ khi khép cửa, đứng dựa lưng vào.

Johnny e dè nhìn hắn, “Anh muốn gì?”

O’Brien nói, “Tôi đề nghị với anh một việc”.

Johnny đong đưa chân, “Gì hả? Nhưng anh sẽ tốn bộn đấy”.

O’Brien lắc đầu.

“Johnny, đây là lúc ta cần nói chuyện thẳng thắn. Anh không có tư cách để trao đổi. Hoặc anh phải chấp nhận điều kiện của tôi, hoặc anh phải ở lại đây cho tới khi anh đổi ý.”

Johnny hỏi, đưa tay sở bộ mặt bầm tím, “Điều kiện gì?”

“Tối nay anh phải rời khỏi đây, ra phi trường, bay đi New York. Người của tôi sẽ đón anh ở phi trường và đưa anh lên chuyến bay đi Paris. Một người khác sẽ đón anh ở Paris và đưa anh tới căn hộ ở đó. Anh sẽ ở lại Paris tới khi nào tôi cho phép anh rời đi”.

Johnny cười mỉa, “Tức là sau khi anh đã kết hôn với Gilda chứ gì? Anh có hình dung ra nó sẽ lấy anh trừ phi tôi có mặt để tiễn nó ?”

O’Brien nói khẽ, “Anh sẽ viết vài chữ báo cô ấy biết tối nay anh đi Paris và sẽ không quay lại. Cô ấy biết anh đang gặp rắc rối. Cô ấy sẽ không ngạc nhiên nếu anh trắng án”.

“Sao anh bận tâm đến chuyện rũ bỏ tôi vậy?”

O’Brein đáp, “Cần anh hỏi sao? Anh là mối lo khốn kiếp. Tôi biết tôi sẽ thế nào nếu chấp nhận anh là anh rể. Tôi có thể làm được không cần anh đi kèm”.

Johnny cười.

“Đừng có trẻ con, Sean. Muốn có Gilda, anh phải chấp nhận tôi. Tôi không đi. Bỏ cái ý đó ra khỏi đầu dùm. Tôi sẽ bám vào anh, Gilda và cái túi tiền của anh”.

O’Brien nhún vai.

“Tùy anh. Đi hay cứ ở lại chỗ này đến khi thối rữa. Anh không có chọn lựa nào khác, còn nếu anh tưởng trốn được, cứ thử xem sao.”

Johnny nhăn nhó.

“Tôi đi nếu có vài đồng. Có không?”

O’Brien nói, “ Tôi đâu có mong anh đi mà không tốn của tôi vài đồng. Tôi sẽ đưa anh mười tờ lớn đổi lại lá thư cho Gilda và lời hứa sẽ ở lại Paris tới khi nào tôi bảo anh quay về”.

Johnny nói vẻ nghi ngờ, “Mười tờ lớn. Anh nên làm tốt hơn. Cho là năm mươi đi, và đây là thỏa thuận”.

“Hai mươi lăm. Không hơn”.

“Tôi chốt con số ba mươi”, Johnny nói, nhìn sát mặt O’Brien. Hắn tỏ vẻ lưỡng lự rồi rùn vai, “Được, ba mươi. Người của tôi sẽ đưa một nửa ở New York, nửa còn lai anh sẽ nhận ở Paris”.

“Sean, anh sẽ không chơi trò hai mặt với tôi chứ? Nếu không đưa tiền, tôi sẽ quay lại”.

“Lúc ấy thỉ cảnh sát đang lùng anh. Hình như anh quên anh vừa giết một người đàn bà tối qua?”

“Sao tôi không nên quên? Nó là cơn đau đầu của anh mà. Tôi muốn có tiền ngay bây giờ. Thế còn vé máy bay của tôi?”

“Người của tôi sẽ lo”, O’Brien nói trơn tuột. Hắn móc ví, đếm ba trăm đô la để trên bàn, phẩy tay, “Đây, cầm lấy”.

Johnny không cần mời đến lần thứ hai. Hắn tuột khỏi giường, đếm tiền, nhét vào túi.

Hắn cười nhăn nhở, “Sean, chú phải cần đến cô ấy. Chú em, chú phải cần cô ấy tham gia mọi chuyện tiền nong. Tôi không muốn giao chuyện này cho nó hay bất kỳ người đàn bà nào”. O”Brien phải rán dằn cơn giận đang trào lên trong lòng.

Hắn nói cộc lốc, “ Có cuốn sổ trong hộc bàn. Viết cho Gilda báo là anh sắp đi Paris, khá lâu mới về.”

Johnny nóng nảy nói, “Quái quỷ gì đâu. Chú nói cũng được mà. Sao tôi lại phải bận tâm viết lách?”

O’Brien nói, giọng tức giận, “Viết hay không có thỏa thuận gì hết”

Johnny hỏi, mắt bỗng hiện vẻ nghi ngờ, “Chú đang lo gì hả? Sợ cô ta nghĩ chú đấm vào đầu tôi rồi thả trôi sông phải không?”

O’Brien thầm ngạc nhiên sao Johnny có thể tiến sát sự thật như thế, “Đừng có ngốc ! Cô ấy quý mến anh nên cô ấy xứng đáng được nghe trực tiếp ở anh”.

“Được. Vậy tôi sẽ gọi cho nó từ phi trường.”

“Tôi không để anh lảng vảng ở phi trường, ở đó cớm có thể nhận ra anh. Viết ngay bây giờ, không thì hủy thỏa thuận”.

Johnny rùn vai.

“Được, được. Tôi có nên cho nó biết bọn đầu trâu mặt ngựa của anh đã đánh tôi không? Tôi không hình dung được nó có còn thân mật dịu dàng với anh nữa không khi mà nó biết anh đối xử với tôi thế này?”

“Cứ việc !”, O’Brien quát và quay đi, mặt nhăn nhúm vì cố kềm cơn giận.

Johnny ngồi xuống, hí hoáy vào tờ giấy trong cuốn sổ. Hắn ư ử trong miệng, rồi ném tờ giấy cho O’Brien, hắn nói, “Đây, giờ chuồn khỏi con tàu bẩn thỉu này được rồi.”

O’Brien nhặt tờ giấy, đọc, gật đầu, rồi chỉ tay vào phong bì.

“Ghi địa chỉ của cô ấy”.

Johnny làm theo lời, O’Brien bỏ tờ giấy vào phong bì, dán lại rồi nhét vào ví.

Hắn vui mừng. Hắn đã thoả thuận xong với Johnny mà không làm Gilda nghi ngờ.

Hắn nói, “Anh không đi với tôi. Tôi không muốn liều để người ta bắt gặp đi với anh. Tôi sẽ đi với Solly, nó sẽ dùng xuồng máy quay lại đón anh, và nhớ, làm theo lời tôi, không thì hối hận đấy”.

Johnny nói, “Hay để tôi đi trước. Tôi ở trên con tàu khốn nạn này lâu hơn anh rồi”.

O’Brien quát, mặt hắn bỗng trở nên dữ dằn, “Câm miệng lại. Đồ chuột bọ thối tha. Tao chịu đựng mày đủ rồi”.

Thái độ của hắn làm Johnny ngạc nhiên.

Y nói vẻ băn khoăn, “Thoải mái đi, Sean. Tôi chỉ đùa thôi mà”.

“Sao, hả? Tao không thích trẻ con. Mà từ lâu tao đã không thích đùa kiểu trẻ con rồi”.

O’Brien đi ra, khoá cửa lại, rồi lên boong. Hắn vẫn còn run lên vì giận. Giở hắn đã có lá thư. Johnny biến mất càng sớm thì càng tốt. Sau này hắn có thể báo cho Gilda là Johnny đã bị giết trong một vụ ẩu đả ở Paris. Sẽ không có chuyện cô ta biết chính hắn ra lệnh giết Johnny.

Solly đứng ở lan can trên boong. Vừa thấy O’Brien, y đã trèo xuống xuồng máy.

Tux ở bên O’Brien.

O’Brein nói rất khẽ, “Làm đi, tóm lấy nó. Mày có chắc mày làm được không, Tux? Tao không muốn có sơ sẩy”.

Tux nói, “Được rồi. Tôi đã lăn cái thùng lên boong. Đựng đầy nước. Sẽ xong thôi”.

“Lúc Solly quay lại, mày lên và gọi tao. Tốt hơn là mày bảo Solly mày đưa Johnny lên bờ bằng xuồng cao su. Tao giữ nó bên cạnh trong vòng một tiếng. Vậy đủ chưa?”

Tux dửng dưng, “Chắc rồi. Tôi xử nó ngay khi ông đi. Không có chuyện gì. Thùng rất to. Nó nằm vừa trong đó. Tôi có đủ xi măng. Một tiếng là ngon.”

“Đừng xài súng. Trên bờ nước có thể nghe được tiếng súng”.

“Tôi xài dao”.

O’Brien nói khi băng qua boong leo xuống xuồng máy, “Cứ coi như công việc”.

Solly thả dây, mở máy, phóng vụt vào đêm tối.

 

 

 

Phần II

Chương VII

1.

Giọng O’Brien và Tux vọng rõ đến tai Ken khi anh đang bám vào mạn tàu, nhưng phải một lúc sau anh mới hiểu ra những gì sắp xảy ra cho Johnny.

Chúng sắp giết Johnny và dìm hắn xuống sông !

Ken lạnh cả người.

Khi Johnny đã nằm ở đáy sông, làm sao mà người khác không tin anh đã giết Fay. Anh phải cứu Johnny, đưa y về đất liền và giao y cho Adams. Đó là cơ hội duy nhất để chứng minh anh vô tội.

Nhưng ý nghĩ tay không tóm lấy Tux làm miệng anh khô đắng, tim đập thình thịch. Ken không làm ra bộ mình là con người hành động. Anh cũng biết mình không đủ mạnh tay khoẻ chân để đánh nhau tay không với Tux. Nhưng không còn cách nào khác. Cứu Johnny là tự cứu mình.

Khi buộc thuyền vào móc sắt bên ô cửa phòng Johnny, anh thầm nghĩ có an toàn không khi tìm cách làm Johnny chú ý và báo cho hắn biết anh định làm gì, nhưng Tux vẫn còn trên boong, và anh quyết định để hắn không nghe được gì.

Hành động đầu tiên là leo lên boong. Nếu lẻn đến cạnh Tux, đấm ngay vào đầu y, việc giải cứu trờ nên đơn giản.

Anh vươn người nắm lấy bậc thang cuối, rồi thận trọng du mình lên tới khi tầm mắt ngang với boong tàu.

Trong bóng tối lờ mờ, anh nhận ra hình dáng Tux ở phía xa, nổi lên trên nền trời. Hắn đang tìm cách nạy nắp thùng tôn nô bự ở lan can cuối tàu, lưng quay về phía Ken.

Tim đập mạnh, Ken nhấc một chân, móc chân vào lan can, đu mình lên. Anh lần dò, nắm được bậc thang trên cùng, nhảy vọt lên.

Anh quỳ trên hai tay và đầu gối, dán mắt vào tấm lưng rộng của Tux.

Tiếng động lớn khi Tux gõ đục vào nắp thùng át mất âm thanh nhỏ Ken gây ra trên boong.

Ken nhìn hắn. Khoảng cách chừng 9mét giữa anh và hắn khiến anh không dám liều nhảy xô tới. Hơn nữa anh không có vũ khí và cũng không có ý dùng nắm đấm.

Anh quyết định cơ hội duy nhất để chống lại Tux là kết hợp sức mạnh với Johnny. Hai người hẳn sẽ giải quyết được Tux. Anh bò về phía thang xuống hầm tàu.

Tux đã gở được nắp thùng, đứng thằng người và bỗng quay lại.

Ken nằm dài không cử động, tim đập như trống làng khi nhìn Tux đi dọc theo boong và biến mất hướng cầu tàu. Hắn xuất hiện trở lại trước khi Ken cử động, vai vác bao xi mắng. Hắn trút hết xi măng vào thùng, rồi quay đi lấy bao khác.

Ken chạy vụt qua boong, đến chỗ hầm tàu, bò xuống khi Tux lại hiện ra.

Anh thấy một lối đi hẹp, thắp sáng lờ mờ. Một trong bốn cánh cửa ở hai bên lối đi có chìa khóa cắm trong ổ. Anh nghe Tux đi lại bên trên, đoán chừng mình không còn nhiều thời gian. Anh vặn khóa, đẩy cửa bước vào cabin.

Johnny đang nằm ườn trên giường. Y ngơ ngác nhìn Ken rồi ngồi dậy.

Y vội hỏi, “Anh là ai?”

Ken đóng cửa, đứng dựa vào. Anh ở trong trạng thái căng thẳng khiến hơi thở khó khăn.

“Tôi tình cờ ở gần tàu này, nghe họ bàn chuyện giết anh”, anh nói giọng run run.  “Họ định bỏ anh vào thùng rồi thả xuống sông”.

Johnny sững người.

Y quát lên, “Có phải trò bịp của O’Brien không? Anh đừng dọa tôi. Cút đi”.

Ken nói, “Ta không được mất giây phút nào. Tux chuẩn bị thùng xong rồi. Hai chúng ta có thể đánh lại hắn, nhưng phải bất ngờ mới được”.

Trong trí Johnny bỗng loé ra cái gã cao, hốc hác, vẻ sợ hãi đang đối diện y, không phải đang cố bịp y. Y nhớ lại vẻ sát nhân của O’Brien khi hắn rời cabin. Y cũng nhớ thái độ cứng rắn của O’Brien khi bắt y phải viết thư cho Gilda. Đúng là O’Brien muốn rủ bỏ y cho rảnh nợ.

Y bò ra khỏi giường, mồ hôi lạnh chảy dòng trên mặt.

Y nói, “Hắn có súng. Ta không có cơ may chống lại hắn”.

Ken nói nhanh, “Ta phải hạ hắn thôi. Đi nào. Ta không thể giải quyết hắn ở đây”.

Johnny hung hăng nói, “Đưa chìa khóa đây. Tôi sẽ giam mình ở đây. Anh đi tìm cảnh sát”.

“Đừng ngốc. Hắn sẽ phá cửa xông vào. Ta sẽ tự giải quyết vụ này”.

Tim Ken chùng xuống khi thấy bộ mặt trắng bệch, rúm ró của Johnny. Anh không ngạc nhiên nghe Johnny nói, “Để tôi ở ngoài việc này. Tôi không lên trên đó đâu”.

Bất cứ lúc nào Tux cũng có thể xuống. Anh phải tìm vũ khí. Nhìn quanh phòng anh thấy không có gì sử dụng được ngoài một cái ghế rệu rã, thế nên anh bước ra lối đi, mở cửa đối diện, mò tìm công tắc đèn bật lên.

Thứ duy nhất anh thấy là chai uýt ki cạn một nửa để trên bàn. Anh ấn chặt nút chai. Đang quay ra cửa thì nghe tiếng Tux đang xuống cửa hầm. Không còn kịp đến cabin Johnny nữa. Chụp vội công tắc đèn, tim đập nhanh, anh đứng dựa vào tường, chờ đợi.

Tux bước dọc lối đi. Y thở phì phò. Ken nhìn thấy y qua cửa mở hé. Ngón tay anh siết chặt cổ chai.

Johnny cũng nghe Tux đến, vội đóng sập cửa.

Tux dừng bên ngoài cửa cabin Johnny, cố xoay chìa, nhưng thấy không khóa, y bỗng ngừng thở.

Ken nhìn y qua khe giữa bản lề và trụ. Anh nín thở khi Tux bỗng rút khẩu tự động cưa nòng ra khỏi áo.

Tux xoay tay nắm và đá cửa mở rộng.

Nhìn qua vai, Ken thấy Johnny dựa lưng vào tường đối diện, mặt xám như tro.

Tux nói khẽ, “Chào Johnny. Ai mở khóa vậy?”

Johnny nói giọng khàn khàn, nhìn mũi súng, “Sao tôi biết. Chắc O’Brien quên khóa. Có vấn đề gì sao? Đằng nào tôi cũng đi mà”.

“Đúng”. Y nhét súng vào túi. Mày sắp đi một chuyến dài”.

Ken bắt đầu trườn dọc lối đi.

Tux nói, “Xếp phát bệnh vì mày. Tao không trách ông ấy. Tao có cái thùng cho mày. Có xi măng làm áo khoác ấm áp vừa vặn lắm”.

Johnny thở dốc, mắt gần lòi ra, “Mày không được làm vậy với tao! O’Brien không chịu đâu ! Tránh xa tao ra !”

Ken nhảy tới, cầm chai giáng một cú thật mạnh vào đầu Tux, nhưng Tux quá nhanh. Y nghe tiếng Ken phía sau, tiếng gió cái chai giáng xuống, lách tránh.

Cái chai đập trúng vai phải, làm y lảo đảo. Mảnh vỏ chai và uýt ki rơi xuống người y.

Tux đảo người, chửi thề, tay nhất thời tê cứng.

Dữ dằn hơn bao giờ hết, Ken đập mạnh một cú vào đầu Tux, Tux né được, chọc một đòn ngay tim Ken làm anh choáng váng.

Johnny chạy nhào ra cửa, Tux vung chân đá trúng trên đầu gối y làm y té ngã.Trước khi Tux nhìn lại anh, Ken đã sấn vào sát hắn, chụp tay. Như đang nắm con khỉ đột vậy. Tux ném văng anh bằng cú hẩy vai. Anh bỏ chạy , tựa lưng vào tường cabin.

Johnny ngồi lên, lùi lại trong khi Ken đứng bên cửa, nhìn Tux.

Tux nói, đôi mắt nhỏ loé lên vẻ ác độc, “Hóa ra mày kiếm được thằng bạn. Được thôi, thùng đủ chỗ cho hai thằng”. Tay hắn hoa ra sau lưng rồi hiện ra với con dao găm, “Thằng nào trước?”

Cả Johnny và Ken đều chùn lại khi thấy con dao, Tux nhe răng cười. Hắn bắt đầu sấn tới.

Ken chụp cái ghế ném vào Tux. Một chân ghế sém trúng mặt Tux, hắn hụp xuống được, chửi thề; hắn chụp chân ghế bằng tay trái, dùng lưỡi dao lia vào Ken.

Hắn quá mạnh so với Ken, và để không bị lôi về phía trước, Ken phải buông ghế ra.

Tux ném ghế đi, nhào tới. Ken nhắm mắt vung tay trúng mặt Tux và lưỡi dao loé lên.

Ken không biết làm sao mà anh tránh được cú đâm. Anh cảm thấy lưỡi dao cắt vào áo, anh xoay sang một bên. Anh ngã vào Tux, chụp cán dao của Tux bằng cả hai tay và dồn hết thân người lên tay Tux, “Giữ lấy nó!”, anh điên cuồng hét lên với Johnny, trong khi tên này, thay vì giúp anh, thì lại rán chạy ra cửa. Khi y đang chen qua hai kẻ đang vật lộn, thì tay trái Tux chụp cổ Johnny và ghim y vào tường.

Ken rán hết sức giữ chặt tay phải của Tux, anh bóp chặt ngón tay Tux vào cán dao, buộc hắn phải buông nó.

Tux móc chân quanh người Ken, rướn lên lật Ken ngã ngửa trên sàn. Anh cố bám vào cổ tay Tux, nhưng cú ngã làm tuột ra.

Tux xoắn quanh Johnny và vung dao, nhưng trong khi ngã, Ken chụp được gấu quần Tux, kéo thật mạnh làm hắn ngã trên đầu anh.

Johnny đá mạnh vào đầu Tux. Mũi giày đập vào thái dương Tux, và chỉ trong hai giây, Tux nằm sóng soài, con dao rơi khỏi tay hắn.

Ken chụp dao, đá mạnh ngang qua phòng, xô Tux ra khỏi người anh, lồm cồm bò dậy.

Tux ngồi lên cùng lúc. Máu chảy trên mặt từ vết rách ở thái dương chỗ bị Johnny đá vào. Cơn giận điên cuồng làm mặt hắn co giật.

Trước khi Ken thoát ra được, Tux quất dây thắt lưng vào mặt anh làm anh té xấp, nhưng Johnny chụp được ghế phang vào đầu và vai Tux.

Johnny hình như bỗng tìm lại chút can đảm. Bột mặt mỏng, trắng nhợt của y cũng hiện ra vẻ sát nhân và tàn nhẫn như Tux. Y lại đập Tux, khiến hắn phải quỳ gối trong khi Ken lăn tròn và lồm cồm đứng dậy.

Tux lấy tay che mặt, cố đứng lên, nhưng Johnny đánh liên hồi vào tay hắn, lấy ghế phang vào đầu hắn.

Lưng ghế nứt toát ra và mặt Tux bẹt đi.

Johnny nhảy tới, chụp mớ tóc dày của Tux, dựng đầu hắn dậy, đập xuống sàn.

Tux ú ớ rồi nằm lịm đi.

Cả hai đứng yên, thở dốc.

Ken thở hổn hển, “Ta ra khỏi đây thôi !  Đi nào !”

Johnny đá thật mạnh vào bên cổ Tux, lăn hắn đi, rồi cúi xuống móc khẩu tự động trong túi hắn ra.

Ken lập lại, “Đi thôi !”.

Johnny theo anh ra hành lang, lên boong.

 

 

 

2.

Đồng hồ trên bảng điều khiển chỉ mười một giờ hai mươi khi Adams tấp xe lên lề nhà số 25 Đại lộ Lessington.

Suốt chuyến đi từ bệnh viện, ông vẫn giữ im lặng, gò lưng trên tay lái, trong khi Watson ngồi cạnh cứ mong đôi lời giải thích nhưng chẳng thấy.

Adams ra khỏi xe, Watson theo chân ông.

Họ bước lên bậc cấp, mở cửa, Adams đi trước leo cầu thang lên căn hộ của Raphael Sweeting.

Adams dừng trước cửa, ông nói, “Gã này sắp có lời khai. Ghi ngay nhé !”

Watson nói, và tự hỏi gã này là ai, “Thưa  vâng.”

Adams nhấn chuông và chờ.

Một lúc khá lâu, cửa mới dè dặt mở và Sweeting, miếng gạc ướt đắp trên mắt phải, nhìn Adams rồi Watson. Hình như hắn rúm người trước ánh mắt sắc của Adams, hắn vội bước lui.

Adams vào phòng, Watson theo sau.

Adams nhìn quanh phòng, “Hoá ra đây là chỗ anh nấp hả. Làm ăn sao, Raphael ?”

Sweeting vội nói, “Trung úy nhìn đi. Tôi lương thiện mà. Bọn cớm các anh cứ theo quấy rầy thì ai mà yên ổn được .”

Adams nhẹ nhàng nói, “Tôi không biết đấy”. Ông lại ghế ngồi xuống. “Hẳn anh khó khăn lắm. Việc tống tiền có phát đạt không?”

Sweeting căm tức nói, “Tôi không hiểu ông nói gì. Tôi đã từ bỏ nhiều tháng rồi”.

“Bỏ rồi ? Mắt anh bị sao vậy ? Có người đòi nợ à ?”

Sweeting sưng sỉa, “Tôi bị tai nạn. Ông trung úy, ông không để tôi yên được sao ? Tôi đang cố kiếm ăn lương thiện mà”.

Adams nói, lấy hộp thuốc lá đốt một điếu, “Kiếm khó nhỉ ? Tôi cho anh nằm mười năm chắc sẽ dễ hơn cho anh nhỉ?”

Sweeting sững người.

“Ông không moi được gì ở tôi hết. Ông biết vậy mà”.

“Raphael này, nhưng tôi lại có thể làm được vài chuyện dễ dàng. Chuyện dễ nhất thế giới. Đừng quên đấy. Tôi có thể nhốt anh mười năm bất cứ khi nào tôi muốn, nhưng sẽ để anh yên nếu anh chịu đi với tôi. Tôi cần vài thông tin.”

Sweeting ngồi xuống. Thật là một ngày khốn nạn. Mắt hắn đau. Hắn thấy mình già và mệt mỏi. Hắn nhìn con Leo co ro, hổn hển, và hắn thở dài.

“Ông muốn biết gì, Trung úy?”

“Các sự kiện. Anh bảo Donovan anh không thấy ai đi lên đi xuống cũng không nghe gì. Anh nói láo. Vậy anh định nói gì với tôi?”

Sweeting nói, “Trung úy, tôi luôn sẵn sàng nói với ông. Tôi không biết gã kia.”

Adams nhìn Watson, ném cho hắn cuốn sổ.

Ông nói cộc lốc, “Ghi đi”. Rồi với Sweeting, “Nói hết. Tôi đã biết gần đủ, vậy đừng bỏ sót chi tiết. Bắt đầu từ chỗ anh gặp Holland nơi cầu thang.”

Sweeting ngần ngừ.

Hắn lúng búng hỏi, “Trung úy, ông giam hắn chưa? Tôi không tin thằng cha này chút nào. Tôi cá thằng này tố tôi tống tiền hắn”.

Adams lạnh lùng nói, “Hắn bảo hắn đấm vào mắt anh. Nói đi!”

Sweeting kể.

Nửa giờ sau, Adams đốt điếu thứ tư, duỗi chân, ngáp và gật đầu.

“Chắc phải cẩn thận việc này. Anh chắc là anh không thấy gã rời căn hộ Carson trước Holland phải không?”

“Tôi không thấy gã”, Sweeting buồn rầu nói. Hắn vừa chia sẻ thông tin rất giá trị mà chẳng được gì, và hắn rầu rĩ vì thế.

Adams nói với Watson, “Ghi đủ cả chưa?”

“Thưa đã.

Adams nói, “Ký vào, Raphael. Ký từng trang, còn Watson, anh ký đối chứng”.

Khi cả hai đã ký xong bản khai, Adams lấy lại cuốn sổ.

Ông nói với Watson, “Anh về được rồi. Ngậm miệng lại đấy”.

Khi Watson đã đi, Adams đốt điếu thứ năm, đổi thế ngồi cho dễ chịu trên ghế, nhìn Sweeting, đăm chiêu.

“Raphael, ta cần nói chuyện một chút. Cứ giữ y lời chứng, anh sẽ có lợi. Tôi muốn phá vụ án này. Nó rất quan trọng với tôi. Anh không thấy, không nghe được nhiều _ chắc anh cũng có vài ý tưởng. Nếu anh đùa với tôi, tôi sẽ đùa với anh, vì thế hãy đứng đúng về phe tôi.”

Sweeting dụi mắt, nói, “Vâng, trung úy. Nhưng tôi không biết một chuyện”.

Adams duỗi chân, nói, “Có lẽ. Tôi có ý này, Johnny Dorman đã hạ đo ván cô gái. Anh phản ứng thế nào về ý này ?”

Sweeting tỏ ra ngạc nhiên.

“Johnny sao? Hắn đâu có giết ai?”

“Đừng nói ba rơi. Dĩ nhiên là hắn. Hắn cũng tàn nhẫn như bọn chúng thôi. Anh có biết rõ hắn không?”

Sweeting nói, “Thỉnh thoảng tôi có chơi bi a với hắn. Phải, chắc tôi biết rõ hắn, nhưng tôi đã không gặp, không nghe gì về hắn từ khi hắn vào nhà thương điên. Cái gì khiến ông nghĩ hắn làm?”

“Hiện giờ tôi không nghĩ hắn làm. Tôi đã nói tôi thích hắn làm việc này, nhưng tôi đổi ý rồi. Hắn có dọa giết cô ta trước khi hắn vào nhà, điều này khiến tôi nghĩ chính hắn làm.”

Sweeting nói, “Hắn không giết cô ta. Hắn đã chán chê cô. Tôi biết. Hắn có nói với tôi. Cô ta không nghĩa lý gì với hắn sau khi đã đánh đập cô”.

“Được rồi. Vậy anh nghĩ Holland làm hả?”

Sweeting do dự. Hắn muốn kéo Holland vào rắc rối nếu được, nhưng hắn quyết định Adams không thích hắn đâm sau lưng ông ta vì sự yêu ghét riêng tư.

“Tôi cho là không. Sao ông lại đổi ý về Johnny vậy, trung úy?”

“Tôi không cho là hắn có thể làm việc này. Holland có thấy hắn bên ngoài quán Hoa hồng Xanh. Hắn không biết địa chỉ Carson. Hắn không thể đến đó và đột nhập vào phòng ngủ cô ta trước khi họ về, phải thế không?”

Sweeting nghiêng đầu.

“Không chừng ông có lý”.

“Tôi nghĩ là thế. Được rồi. Nếu không phải Johnny, cũng không phải Holland, thì là ai?”

Sweeting chớp mắt.

“Ông hỏi tôi đấy à?”

“Tôi hỏi anh đấy, Raphael. Cả đời anh chỉ chuyên dí mũi vào chuyện người khác. Đừng nói với tôi là anh không dính vào chuyện của Carson nhé?”

Sweeting do dự.

“Được. Tôi muốn giúp ông, trung úy. Nhưng tôi không biết”.

Adams khẽ nói, “Đoán thử xem”.

Sweeting lại do dự.

Y chậm chạp nói, “Nếu tôi là ông, tôi sẽ nói chuyện với Maurice Yarde. Chắc hắn có vài ý đấy”.

“Hắn là ai?”

“Hắn từng là vũ công nhảy cặp với Fay trước khi cãi nhau”.

“Cãi nhau chuyện gì?”

“Cô ta và Gilda Dorman từng chia nhau căn hộ. Yarde đổ gục vì Gilda. Hắn hủy hợp đồng , rồi hắn cùng Gilda đi Los Angeles. Sáu tháng sau, cô ta quay về một mình. Yarde trở lại hai ngày trước. Hắn đến gặp Fay. Tôi tình cờ gặp hắn. Họ có cãi nhau. Tôi nghe cô ta nguyền rủa hắn. Khi hắn bỏ đi, tôi nghe hắn nói sẽ cắt cổ cô”.

Adams bỏ mũ, luồn tay vào mái tóc trắng dày.

“Anh có chắc Gilda bỏ đi với Yarde không?”

Sweeting gật đầu.

“Johnny bảo tôi mà. Hắn ghét chuyện này. Yarde là đứa tồi tệ: trung úy à, một thằng rất xấu với đàn bà”.

Adams gãi cằm. Tình hình trở nên phức tạp. Ông muốn cột Johnny vào vụ giết người, nhưng nếu y không thể làm thế, thì Yarde là tên thích hợp nhất. Trong cả hai trường hợp Gilda đều dính líu và cả O’Brien cũng dính luôn.

Ông hỏi, “Tìm Yarde ở đâu?”

“Hắn thường lảng vảng ở khách sạn Washington. Có thể hắn ở đó, trung úy”.

Adams chầm chạp đứng lên, ông thấy tê chân. Đêm nay biến thành đêm chó chết.

“Được rồi, Raphael. Ngậm miệng và vắt chân lại. Ở yên đây, không được rời thành phố. Có thể tôi cần anh làm chứng. Đứng về phía tôi, anh sẽ không bị rắc rối đâu”.

“Vâng, trung úy”. Sweeting nói, và lần đầu tiên từ khi Adams ở trong nhà, hắn thấy mình được thở tự do.

Khi Adams ra tới cửa, Sweeting tiếp, “Xin lỗi, trung úy. Nhưng ông không tình cờ có vài đồng bạc lẻ chứ. Mai tôi phải trả tiền thuê nhà mà chỉ còn mấy xu”.

Adams mở cửa, đi chậm xuống cầu thang, có vẻ ông không nghe, đầu cúi, chân mày nhíu lại suy nghĩ.

Sweeting đứng dựa lan can, cố không nhổ toẹt vào mũ Adams. Hắn quay vào phòng, sập cửa lại.

Trước ngày mai, hắn phải kiếm ra ít tiền. Hắn đứng suy nghĩ một lúc lâu, mặt hắn sáng lên. Tất nhiên ! Gilda Dorman ! Đáng lẽ phải nghĩ đến cô ta trước. Cô sẽ san sẻ vài đồng nếu hắn gọi cho cô. Cô hẳn sẽ quan tâm nếu biết người yêu cũ, Maurice Yarde, đang ở trong thành phố. Cô sẽ có cảm tình với hắn. Cô cũng sẽ quan tâm nếu biết Trung úy Adams cho là anh trai cô giết Fay. Khả năng là vô tận !

Sweeting liếc đồng hồ trên bệ lò sưởi. Mười một giờ mười lăm. Các ca sĩ ở câu lạc bộ thường làm việc khuya. Hắn sẽ bắt kịp cô nếu nhanh lên. Hắn lật chồng giấy ghi việc, lướt vài trang và tìm ra cái hắn cần.

Hắn lẩm bẩm, “45 Cung Maddox. Chỉ còn năm phút.”

Vơ cái mũ trên tủ ly tách, hắn đội nghiêng để che con mắt bầm, bế con Leo, tắt đèn và vội vã rời căn hộ.

 

 

3.

Khách sạn Washington là một nơi tai tiếng. Phòng mướn theo giờ và nhận phòng không cần hỏi, săng úyt ở mái vòm giải trí và quán bia đối diện bờ sông. Ở tầng hầm, dấu sau panô trượt  kiến trúc thông minh là gian phòng rộng, nơi bạn có thể thử một cối á phiện nếu muốn và nếu đủ tiền trả.

Trân tầng thượng là nhiều phòng trang trí cầu kỳ, nơi ở các khách hàng thường xuyên: đa số là các ông mới ra tù, muốn được đi lại, muốn được nhìn quanh quất và dần quen với tự do mới tìm thấy.

Chủ khách sạn là O’Brien và Đại úy cảnh sát Motley chăm lo để người của lão không làm phiền các vị khách lưu trú. Quản lý, Seth Cutler, lùn, đậm người và rắn như đá tạc, ngạc nhiên khi thấy Trung úy Adams đang băng qua hành lang đèn thắp lờ mờ. Y chống khuỷu tay lên bàn, chờ, mắt đăm chiêu.

Y nói, khi Adams đến đối diện y, “Chào Trung úy. Lâu quá không gặp”.

Adams nói, “Ừ. Cho tôi xem sổ đăng ký”.

Cutler nhướng mày, ngoáy ngón út vào tai phải, lấy ra, nhìn thử coi tìm thấy gì.

Adams sủa, giận dữ “Lẹ lên !”

Cutler nói, “Xin lỗi, trung úy, chắc ông đến lầm chỗ rồi. Đây là Washington. Chúng tôi đã được bảo vệ.”

Adams nói, “Đưa tôi cuốn sổ”.

Cutler rùn vai, lấy ra cuốn sổ bọc da sờn rách, thổi bụi rồi để trên bàn.

Dòng cuối cùng ghi ngày 19.6.1941.

Adams nói vẻ ghê tởm, “Thú vị khi thấy anh vẫn làm việc đấy”. Ông đẩy lùi cuốn sổ, “ Tôi tìm Maurice Yarde”.

Cutler lắc đầu.

“Trung úy, chưa bao giờ nghe tên này. Rất tiếc. Sẵn lòng giúp nếu được”.

Adams gật đầu.

“Tệ quá. Thế là tôi phải đi từng phòng tìm cho ra nó”.

“Tôi không làm thế đâu, trung úy”.

Adams chăm chú nhìn Cutler.

“Tôi sắp làm thế đấy nếu anh không bảo tôi biết tìm nó ở chỗ nào”.

“Đại úy không thích thế”.

Adams nói, “Anh cứ kiếm chỗ mà sủa. Đại úy bảo tôi nói chuyện với Yarde. Đây không phải vụ bắt giữ. Tôi chỉ cần thông tin”.

Cutler lưỡng lự.

“Tôi không thích khách sộp của tôi bị quấy rầy, trung úy. Tôi muốn nghe lệnh thẳng từ Đại úy.”

Adams nhún vai nói, “Được thôi. Nếu đó là cách anh muốn. Tôi bắt đầu từ tầng trệt đi lần lên, và tôi muốn xem anh cản tôi!  Đừng trách nếu mấy vị khách khác bị anh làm phiền”.

Cutler sủa, mặt đỏ bầm, “Nó ở tầng thượng, phòng số 10”.

“Cám ơn”.

Adams bước vào thang máy cổ xưa, đóng cửa, kéo sợi thừng đưa cái lồng bốc mùi theo đường ống có mùi y hệt đi lên.

Ông thầm cảm tạ khi thang kẽo kẹt ngừng trên tầng thượng. Dọc đường ông cứ lo dây đứt hay đáy lồng rơi xuống.

Đối diện là hành lang dài, hàng cửa cách nhau vài mét. Ông đến phòng số 10, đứng ngoài lắng nghe, rồi khi không nghe gì trong phòng, ông gõ nhẹ lên cửa. Không động tĩnh gì, và ông gõ lại.

Cánh cửa đối diện bỗng mở ra.

Cô gái, áo khoác lụa xanh đỏ, tóc nâu vàng xõa xuống vai, đứng tựa cửa, trình diễn trước mắt ông cặp giò trắng thon dài.

Cô nói, “Hắn đi vắng rồi. Nếu anh muốn chờ, trong phòng tôi có ghế”.

Adams nói nhẹ nhàng, “Cô đang nói chuyện với sĩ quan cảnh sát đấy”.

Cô gái chun mũi, so vai.

“Tôi không đủ tư cách. Quà đang chờ đây”.

Adams đến bên cô.

“Yarde đi hồi nào?”

“Tối qua. Hắn gặp rắc rối à?”

“Không phải chuyện tôi. Tối qua mấy giờ?”

“Khoảng tám giờ. Có vào không hay chỉ làm tôi mất thời gian?”

Adams kiên nhẫn nói, “Tôi đã bảo cô tôi là sĩ quan cảnh sát. Cô vừa cho tôi bằng chứng để bắt giam đấy”.

Cô gái khúc khích cười.

Cô làm mặt với ông và khép cửa, “Ông khôi hài ghê. Đã có ai bảo ông chỗ này được bảo vệ chưa?”

Adams gãi cằm tư lự. Ông trở lại phòng số 10, xoay tay nắm rồi dè dặt đẩy vào. Ông ngạc nhiên thấy cửa mở toang. Ông mò tay vào tường tìm công tắc đèn, bật lên.

Vẻ bừa bãi làm ông vội bước vào, đóng cửa lại.

Như thể vừa có trận cuồng phong quét qua. Ngăn tủ kéo ra, đồ đạc bên trong vất lung tung trên sàn. Giường rách toạc, nệm và gối bay tung toé khắp phòng. Hai ghế đu gãy từng mảnh. Tranh ảnh bị lôi xuống vất trên sàn, mặt lưng bị xé ra.

Cửa tủ áo vẫn còn mở: đồ lớn, sơmi, giày, đồ lót chồng đống bừa bộn.

Adams nghĩ, có ai đã lục lọi tìm cái gì rất quan trọng, và lục lọi hoàn tất như một vụ phá hoại.

Ông lại chỗ điện thoại, nhấc máy, và khi nghe tiếng Cutler, ông nói, “Tôi cần anh. Lên đây”.

Trong khi chờ đợi, ông nhìn quanh nhưng không thấy gì đáng lưu tâm.

Cutler vội đi lên. Nghe y thở, Adams đoán y chạy trên cầu thang.

Thấy đống lộn xộn, Cutler đứng sững.

Y la hoảng, “Khóc thét lên được !”

Adams chua chát nói, “Sao anh không cho tôi biết Yarde đi rồi?’

Cutler nói, “Tôi đâu biết hắn đi. Chuyện quái quỷ gì ở đây vậy?”

“Sao tôi biết. Tôi thấy nó như vậy. Anh có lối đi khác ngoài hành lang chính không?”

“À, ở cuối hành lang, dưới lối thoát hiểm”.

“Đã có ai lên theo lối này chưa?”

“E là có”.

Adams càu nhàu.

“Cô ả ở phòng đối diện. Có thể ả thấy gì đó. Đem ả lại đây”.

Cutler do dự, nhưng ánh mắt sắc lạnh của Adams báo với y đây không phải lúc đôi co.

Y băng qua hành lang, mở cửa phòng đối diện.

“Này, Milly, lại đây chút coi”.

Cô gái xuất hiện , nhìn căn phòng bừa bộn, mắt sáng lên.

“Chà, chà ! Có người mất đồ hả?”

Adams hỏi, “Có phải Yarde đi theo lối thoát hiểm tối qua không?”

Cô hỏi Cutler, “Tôi có phải trả lời anh cớm này không?”

Y gật đầu.

“Được, nếu ông nói vậy. Nhưng tôi nghĩ chỗ này đã có bảo vệ”.

Adams quát, “Có phải Yarde đi theo lối thoát hiểm tối qua không?”

“Phải. Ai cũng dùng lối thoát hiểm”.

“Không thể đổ đống rác này mà không có tiếng ồn. Cô có nghe gì không?”

“Tôi nghe radio. Tôi có nghe tiếng bàn ghế xê dịch. Tôi không nghĩ gì hết”.

“Lúc đó mấy giờ?”

“Đâu chừng mười giờ rưỡi”.

“Cô không thấy ai lạ ở lối đi?”

“Nếu thấy tôi đã gọi Seth rồi”.

“Cô vừa nói Yarde đi rồi. Cô không thấy lạ khi nghe tiếng ồn lúc Yarde đã đi rồi sao?”

“Làm sao sao tôi biết chuyện trong phòng hắn. Tôi chỉ nghe tiếng ồn. Sao tôi phải quan tâm?”

“Làm sao cô biết Yarde đi lúc tám giờ tối qua? Cô có gặp hắn không?”

“Có”.

“Hắn có nói đi đâu không?”

“Hắn nói đi kiếm ít tiền”.

“Hắn nói với cô thế à?”

“Phải. Hắn vay tôi mười đồng, tôi đang cần số tiền này. Hắn nói hiện không có, nhưng sẽ trả lúc quay về”. Và cô nhìn quanh phòng.

“Chắc là hắn không về đâu nhỉ?”

“Hắn có nói làm gì kiếm tiền không?”

“Tôi không hỏi”.

Adams nói, phẩy tay ra cửa, “Được rồi. Cô có thể đi”.

Cô nói, hối hả quay về phòng, “Cám ơn cớm chẳng vì gì hết”.

Adams hỏi Cutler, “Có ý kiến gì không?”

Cutler lắc đầu.

“Nếy Yarde ló mặt, bảo hắn tôi muốn nói chuyện với hắn. Tôi cần thông tin. Hắn không gặp rắc rối, nhưng sẽ gặp nếu không chịu liên  lạc với tôi”.

“Tôi sẽ bảo hắn. Muốn ra bằng lối thoát hiểm không?”

“Bất cứ gì cũng tốt hơn cái thang máy của anh”.

Họ đi dọc hành lang đến cửa ở cuối. Cutler mở ra, Adams bước vào cái bệ bằng sắt. Từ chỗ ông đứng, có thể nhìn rõ bờ sông và các cao ốc xung quanh. Ngay bên dưới là con hẽm tối thui chạy dọc bên hông khách sạn dẫn ra bờ sông.

Cutler nói, “Dài đấy, trung úy”.

Adams không để ý. Ông đang mãi nhìn hai gã đàn ông đứng trong bóng tối. Đối diện là một viên cảnh sát. Gã cao hơn bỗng lùi lại.

Thái độ đề phòng của viên cảnh sát làm Adams chú ý. Ông thấy gã cao bước lùi phía sau viên cớm. Bỗng y ra tay rất nhanh, màn đêm vỡ vụn vì tiếng súng.

Viên cớm bước tới, ngã quỵ xuống. Gã vừa bắn chụp tay bạn đồng hành, lôi chạy theo con hẽm nơi Adams đứng.

Adams luồn tay vào áo, móc ra khẩu 38 đặc biệt của cảnh sát. Ông nhắm bắn gã cao và hài lòng thấy gã lảo đảo. Ông giương súng định bắn phát nữa, nhưng Cutler trượt té va vào ông, làm ông bắn trật.

Hai gã biến mất trong con hẽm.

Đẩy Cutler sang bên, Adams lao xuống lối thoát hiểm, nhảy ba bậc một.

 

 

 

 


 



 

 


 

 

 


 

 

 

 

 

 

 



 


 

 

 



 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 


 

 

 

 

 


 

 

 

 


 



 

 




 

 

 

 

 

 


 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 


 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 



 

 

 

 

 

 




 

 

 


Đăng nhập để gửi phản hồi cho bài viết