NGUYỄN BÍNH DỊCH THƠ ĐƯỜNG
Nguyễn Bính vẫn được gọi là nhà thơ chân quê. Vì ông đã tự nhận như thế mà:
Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa
Như hôm em đi lễ chùa
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều
Giữa những ồn ào, náo động của phong trào Thơ Mới, giữa những câu, những chữ, những vần điệu Tây phương :
Trăng nhập vào đây cung nguyệt lạnh,
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần.
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm!
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
Mây vắng, trời trong, đêm thuỷ tinh;
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh.
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi...
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người...
Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê.
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
(Nguyệt Cầm, Xuân Diệu)
Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình
Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh
Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
Duyên trăm năm dứt đoạn
Tình một thuở còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát
(Màu thời gian, Đoàn Phú Tứ)
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?
(Tiếng thu, Lưu Trọng Lư)
…
Thì ông vẫn nguyên tính cách ca dao giản dị mà thân tình, mộc mạc pha đẫm chất lãng mạn
Hỡi cô con gái hái mơ già!
Cô chửa về ư? Đường thì xa,
Mà ánh trời hôm dần một tắt,
Hay cô ở lại về cùng ta?
Nhà ta ở dưới gốc cây dương,
Cách động Hương Sơn nửa dặm đường,
Có suối nước trong tuôn róc rách,
Có hoa bên suối ngát đưa hương.
(Cô hái mơ, Phạm Duy phổ nhạc)
Cầm tay anh khẽ nói:
Khóc lóc mà làm chi?
Hôn nhau một lần cuối,
Em về đi, anh đi.
Rồi một hai ba năm,
Danh thành, anh trở lại.
Với em, anh chăn tằm,
Với em, anh dệt vải.
Ta sẽ là vợ chồng,
Sẽ yêu nhau mãi mãi.
Sẽ xe sợi chỉ hồng,
Sẽ hát câu ân ái.
Anh và em sẽ sống
Trong một mái nhà gianh.
Lấy trúc thưa làm cổng,
Lấy tơ liễu làm mành.
Nghe lời anh, em hỡi!
Khóc lóc mà làm chi?
Hôn nhau một lần cuối,
Em về đi! anh đi.
(Hôn nhau lần cuối, Văn Phụng phổ nhạc)
Xuân đã đem mong nhớ trở về
Lòng cô gái ở bến sông kia.
Cô hồi tưởng lại ba xuân trước,
Trên bến cùng ai đã nặng thề.
Nhưng rồi người khách tình, xuân ấy,
Đi biệt không về với... bến sông.
Đã mấy lần xuân trôi chảy mãi,
Mấy lần cô gái mỏi mòn trông.
Xuân này đến nữa đã ba xuân,
Đốm lửa tình duyên tắt nguội dần.
Chẳng lẽ ôm lòng chờ đợi mãi,
Cô đành lỗi ước với tình quân.
Bỏ thuyền, bỏ bến, bỏ dòng trong,
Cô lái đò kia đi lấy chồng.
Vắng bóng cô em từ dạo ấy,
Để buồn cho những khách sang sông...
(Cô lái đò, Nguyễn Đình Phúc phổ nhạc)
Ông còn viết dăm ba bài nhuốm màu biên tái của thơ Đường như trong tập Mây Tần. Tiêu biểu là bài Tết Biên thùy:
Ngồi xếp bằng tròn trong ải lạnh
Nửa đêm trừ tịch bỗng dưng sầu
Có người lính thú ngâm qua rượu:
“Xuân nhật ngưng trang thượng thuý lâu...“
Có phải đêm nay trời mới tối,
Đêm nào trời cũng tối như đêm
Ải xa không pháo giao thừa nổ
Mưa rét tơi bời mưa rét thêm.
Vườn cũ hoa mai chắc nở rồi
Cánh mai ai gửi đến xa xôi
Mẹ ơi! Một sớm thăm hoa rụng
Nhặt giữ giùm con dăm cánh thôi.
Rượu chẳng say cho, đèn cũng lụi
Ngày mai xuân nở khắp giang san
Ngày mai ăn tết bằng chi nhỉ?
Ăn tết bằng hai cánh cửa quan!
Và khi ông viết bài Hành Phương Nam, thì hầu như không nhận ra Nguyễn Bính nữa:
Đôi ta lưu lạc phương Nam này
Trải mấy mùa qua én nhạn bay
Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
Mà ta với người buồn vậy thay
Lòng đắng sá gì muôn hớp rượu
Mà không uống cạn mà không say
Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã
Mà áo khinh cừu không ai may
Người giam chí lớn vòng cơm áo
Ta trí thân vào nợ nước mây
Ai biết thương nhau từ buổi trước
Bây giờ gặp nhau trong phút giây
Nợ thế chưa trả tròn một món
Sòng đời thua đến trắng hai tay
Quê nhà xa lắc, xa lơ đó
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay
Tâm giao mấy kẻ thì phương Bắc
Ly tán vì cơn gió bụi này
Người ơi buồn lắm mà không khóc
Mà vẫn cười qua chén rượu đầy
Vẫn dám tiêu hoang cho đến hết
Ngày mai ra sao rồi hãy hay
Ngày mai có nghĩa gì đâu nhỉ?
Cốt nhất cười vui trọn tối nay
Rẫy ruồng châu ngọc, thù son phấn
Mắt đỏ lên rồi cứ chết ngay
Hỡi ơi Nhiếp Chính mà băm mặt
Giữa chợ ai người khóc nhận thây
Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén
Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay?
Mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự
Giày cỏ gươm cùn ta đi đây
Ta đi nhưng biết về đâu chứ?
Đã đẩy phong yên lộng bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi!
Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà ngươi cả tiếng cười
Dằn chén hất cao đầu cỏ dại,
Hát rằng phương Nam ta với ngươi.
Ngươi ơi! Ngươi ơi! Hề ngươi ơi!
Ngươi ơi! Ngươi ơi! Hề ngươi ơi!
Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh,
Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi...
(Gởi Văn Viễn, Đa Kao 1943)
Nhìn thấy hình ảnh Cao Tiệm Ly gõ trúc hát cùng Kinh Kha trước lúc sang sông hành thích vua Tần.
(Nhân tiện trích vài câu trong bài, Bài ca sông Dịch của Vũ Hoàng Chương để ngâm nga:
…
Vinh cho người hề ! ba nghìn tân khách
Tiễn người đi tiếng trúc nhịp lời ca
Biên thùy trống giục
Nẻo Tần sương sa
Gió thê lương quằn quại khói chiêu hà
Buồn xưa giờ chưa tan
…
Tám phương trời khói lửa
Một mũi dao sang Tần
Ai trách Kinh Kha rằng việc người đã lỡ
Ai khóc Kinh Kha rằng thềm cao táng thân
Ai tiếc đường gươm tuyệt diệu
Mà thương cho cánh tay thần
…
Riêng tồn tại với thời gian việc làm chính nghĩa
Tranh sáng với trăng sao tấm lòng trượng phu
Một nét dao bay ngàn thuở đẹp
Dù sai hay trúng cũng là dư
Và vì thế, khi ông cất bút dịch bài thơ Tiễn biệt Phó sinh, có lẽ là bài thơ Đường duy nhất mà ông dịch, nó trở thành tuyệt tác.
Dòng thơ Đường là dòng thơ đứng riêng một cõi. Những thi tiên Lý Bạch, thi thần Bạch Cư Dị, thi thánh Đỗ Phủ, trở thành những ông tiên, ông thánh, ông thần làm thơ chứ không phải vì làm thơ hay mà được phong tiên, phong thánh, phong thần.
Bài Tỳ Bà hành của Bạch Cư Dị lừng lẫy hơn nhờ bản dịch của Phan Huy Thực. Bản dịch có một đời sống riêng, và chẳng ai nhớ, cũng chẳng thèm biết đến nguyên tác.
Thử đọc hai câu đầu:
Bến Tầm dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu
Tản Đà mê mẩn chữ Quạnh, đến mức ông viết
Vèo trông lá rụng đầy sân
Công danh phù thế có ngần ấy thôi
(Cảm thu _Tiễn thu)
Và ta không biết chữ Quạnh với chữ Vèo, chữ nào đắt hơn !
Nói dông dài chỉ để nói đến bản dịch thơ Đường của Nguyễn Bính nếu không hơn thì cũng chẳng kém bản dịch Tỳ bà hành là mấy.
Tặng biệt Phó sinh
Nhất hạp xuân dao vạn lý tình,
Đoạn trường phương thảo đoạn trường oanh.
Nguyện tương song lệ đề vi vũ,
Minh nhật lưu quân bất xuất thành.
Dịch nghĩa
Một chén rượu xuân chứa tình chia ly vạn dặm,
Cây cỏ và chim oanh ngày xuân đang tươi vui cũng buồn đứt ruột.
Ước gì có thể đem đôi dòng lệ làm thành cơn mưa nhỏ,
Sớm lai níu kéo chàng không cất bước rời khỏi thành.
Chàng Phó ở đây là Phó Xuân.
Bản dịch của Nguyễn Bính
Chén xuân chan chứa bao tình
Cỏ thơm xơ xác, con oanh thẫn thờ
Sớm mai chàng đã đi chưa
Xin đem nước mắt làm mưa giữ chàng.
Đọc thơ ông, ta những ông dễ dãi, xuề xòa, thể hiện rõ nhất trong những bài Chân quê hay Cô hái mơ. Nhưng không, hãy đọc đoạn hồi ký sau đây của người bạn ông, ta sẽ rất bất ngờ:
Nhà thơ Hoàng Tấn, một người bạn thân của Nguyễn Bính nhớ lại trong Hồi ký: Nếu với thơ, Bính kỹ lưỡng đắn đo suy nghĩ có khi đến quên ăn quên ngủ vì một từ, viết nháp nhiều lần, sửa chữa kỹ lưỡng từng câu từng chữ, trước khi đưa in viết sạch sẽ rõ ràng nắn nót bao nhiêu, thì trong cuộc sống Bính bạt mạng buông thả bấy nhiêu. Tính thích khôi hài, giàu óc tưởng tượng, thông minh nhanh nhẹn, ứng phó mau lẹ như Án Anh, Bính thường hay châm chọc bạn bè. Cái mà Bính thù ghét nhất là những bài thơ dở, cũng như những người làm thơ không hay. Đưa cho Bính coi một bài thơ mà Bính cho là dở, thì lập tức không nể gì tác giả đang đứng trước mặt, dùng những lời lẽ cay độc để chê bai khiến tác giả đỏ mặt, nhiều khi tự ái phát khùng. Lại còn tính kiêu kỳ khinh bạc nữa. Ngay cả với những người cưu mang Bính, khi thất thố điều gì là Bính thẳng cánh mất mặn mất nhạt. Nhưng đặc biệt lạ lùng là sau một cuộc đấu khẩu nảy lửa gay gắt dẫn đến việc phải xa nhau, chỉ một thời gian sau gặp lại Bính lại vui vẻ niềm nở như không. Riêng về thơ, Bính tự cao tự đại quá quắt, chê thơ người này non, người kia dở, kể cả những thi sĩ có người còn nổi tiếng hơn cả Nguyễn Bính. Những câu thơ của ai được Bính khen hay (khuyên son), là một điều hãn hữu. Người mà Bính phục tài và "Nguyện suốt đời là người học trò nhỏ" là thi hào Nguyễn Du. Chẳng thế mà Truyện Kiều Bính thuộc làu và lấy làm sách gối đầu giường.
(Trích Wiki pedia)
Và ta sẽ hết ngạc nhiên với bản dịch trên. Gọi nó là tuyệt tác thì chắc cũng không quá lời.
Lời gọn, ý cô đọng, từng chữ đều được cân nhắc. Bài thơ chỉ có bốn câu nhưng tình ý triên miên như một dòng sông dài chảy mãi không dứt.
Bài thơ này không có trong các tuyển tập thơ Đường, nhưng lại lưu truyền gắn với những giai thoại đời Đường.
Có hai giai thoại khác nhau:
Nhiều nhà nghiên cứu cho bài thơ này là của Trần Mỹ Dung, một nhà thơ nữ, và giải thích: Trần Mỹ Dung là một cô gái xinh đẹp. Một viên quan muốn chiếm đoạt, bị nàng cự tuyệt. Hắn lập mưu bắt cha nàng vào tù. Viên quan trẻ tên là Phan Trung biết chuyện, tìm cách cứu cha nàng, sau đó được ông gả con gái. Sắp đến ngày thành hôn, Phan Trung bỗng nhận được lệnh phải đi làm công vụ. Trước lúc xa nhau, Trần Mỹ Dung làm bài thơ này.
Sau đó, Phan Trung có công phát hiện nhiều vụ tham nhũng, bị bọn tham quan ô lại trả thù bằng cách vu cáo, phải vào tù, được một cô gái là Hồng Nương chăm sóc những lúc ốm đau, bệnh tật. Khi Phan Trung được tha, Hồng Nương lo lắng thuốc thang, nên lúc bình phục chàng đành phụ tình Trần Mỹ Dung cưới Hồng Nương.
Mười năm trôi qua mà không có tin tức gì về Phan Trung, gia đình Trần Mỹ Dung cậy người đi dò la tin tức mới biết chuyện. Trần Mỹ Dung tìm thăm Phan Trung và Hồng Nương. Lúc chia tay, Phan Trung tặng Trần Mỹ Dung một bài thơ, trong đó có hai câu nổi tiếng, được truyền tụng rất rộng xưa nay:
Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ
Vô duyên đối diện bất tương phùng
(Đã có duyên với nhau thì dù cách xa nghìn dặm cũng có thể gặp nhau
Không có duyên với nhau thì dù có ngồi trước mặt cũng như không gặp nhau vậy)
Lại có một giai thoại khác, kể rằng ở Kim Lăng có một kỹ nữ là Lê Cẩm Vân biết làm thơ, giỏi chơi đàn. Nàng phải lòng Phó Xuân. Khi Phó Xuân bị oan, phải giam trong ngục, nàng luôn luôn đến chăm sóc. Lúc Phó Xuân bị điều đi làm lính thú ở xa, Cẩm Vân vẫn đòi đi theo, nhưng chàng không thuận. Nàng ứng khẩu tặng Phó Xuân bài thơ "Nhất ẩm xuân giao..." nói trên. Sau đó, Cẩm Vân thương nhớ Phó Xuân đến buồn bã, ốm yếu, suốt ngày chỉ đọc kinh Phật, không lâu sau thì qua đời.
Giai thoại thứ nhất ghi bài thơ này Vô đề.
Giai thoại thứ hai lấy tên nhân vật trong bài làm đề tựa, Tặng biệt Phó sinh .
Tháng 3-4.2021
NTH
-
NGÀY CỦA MẸ< Trang trước
-
Hầu Lan-Nhân GiảiTrang sau >